Trên da thường có nhiều loại vi khuẩn mà phần nhiều là tụ cầu và liên cầu, chúng có nhiều ở những vùng nhiều lông, chất bã nhờn, mồ hôi, nhất là khi da phải tiếp xúc với môi trường nhiễm bẩn. Trong và sau lũ lụt, người dân sống trong vùng nước ngập phải tiếp xúc với nguồn nước bị ô nhiễm nặng nên rất dễ bị viêm da. Nhằm giúp bạn đọc những hiểu biết để phòng bệnh hiệu quả, báo Sức khỏe và Đời sống đăng bài viết về bệnh viêm da do liên cầu.
Giống như tụ cầu, liên cầu cũng là một loại vi khuẩn có nhiều trên da bình thường, khi gặp các điều kiện thuận lợi, chúng sinh sôi nhanh và gây bệnh. Mặt khác, liên cầu từ môi trường như trong nước bẩn có thể xâm nhập vào da của chúng ta gây bệnh. Viêm da do liên cầu có nhiều thể bệnh như sau:
Chốc lây
Trong bệnh chốc, liên cầu thường phối hợp với tụ cầu gây bệnh, trẻ em mắc bệnh nhiều hơn người lớn. Hay gặp ở đầu, cổ, mặt, các chi, từ đó lan ra các chỗ khác, rất dễ lây nên còn gọi là chốc lây. Tổn thương bắt đầu bằng một phỏng nước nhỏ, lùng nhùng hình tròn, có quầng viêm đỏ. Lúc đầu nước trong dần dần thành mủ đục, giai đoạn phỏng nước và phỏng mủ rất ngắn. Sau đó đóng vẩy tiết vàng, dưới lớp vảy là một lớp chợt đỏ, nông, không cộm. Chốc thường gây viêm hạch ở vùng lân cận. Trẻ em thường bị chốc đầu thành từng đám vảy vàng sẫm, dính bết tóc, dưới lớp vẩy da chợt đỏ, rớm nước. Tổn thương chốc rải rác toàn thân, có thể kèm theo sốt, biến chứng viêm cầu thận cấp, phù nề cẳng chân, mi mắt do viêm cầu thận. Điều trị chốc có nhiều vẩy đắp gạc chấm rửa các dung dịch sát khuẩn. Chốc có phỏng mủ chưa vỡ thì dùng kim sát khuẩn chọc mủ ra cho mủ thấm vào bông, không để mủ dây ra vùng da lành. Chấm các loại thuốc sát khuẩn milian xanh methylen 1%, eosin 2% hoặc mỡ chlorocid 1%… Cho uống kháng sinh. Tắm rửa tránh kỳ cọ mạnh lên tổn thương. Phòng bệnh tránh lây lan bằng cách không dùng chung quần áo, chăn màn, khăn mặt và các dụng cụ khác với bệnh nhân.
Viêm loét chi dưới trẻ em do liên cầu.
Chốc loét (ecthyma)
Là thể chốc tổn thương lan sâu đến trung bì, thường ở chi dưới, nhất là ở chi có giãn tĩnh mạch. Bệnh thường gặp ở bệnh nhân thiếu dinh dưỡng, vệ sinh kém, có bệnh tiểu đường hoặc nghiện rượu. Bắt đầu như chốc, bằng một phỏng nước hoặc một phỏng mủ, sau phỏng mủ vỡ, đóng vảy dày màu vàng sẫm hoặc nâu đen, có vảy thành nhiều lớp đùn cao lên gọi là vảy ốc (rupia). Bóc vảy để lại một vết loét đứng thành, nền tái, rớm mủ, ít nụ thịt, quanh vết loét da tái tím, tiến triển dai dẳng, khó lành. Nếu chốc loét nặng lâu ngày có thể thành loét sâu quảng: loét có ranh giới rõ, hình bầu dục, loét rộng và sâu nền bẩn, tổ chức da xung quanh xơ cứng, màu tái tím, diễn biến rất dai dẳng. Điều trị: rửa vết loét bằng dung dịch thuốc tím 1/4.000, chấm dung dịch nitrat bạc 0,25 – 0,50%, bôi mỡ kháng sinh. Cho bệnh nhân uống hoặc tiêm kháng sinh. Dinh dưỡng tốt kết hợp với sử dụng vitamin A, B1, C…
Hăm kẽ (intertrigo)
Gặp ở trẻ em mập mạp hoặc người lớn béo mập, ra mồ hôi nhiều, tổn thương hay gặp ở nếp cổ, kẽ bẹn, kẽ mông, kẽ sau tai, ở rốn, các ngấn da. Nếp kẽ đỏ da, trợt, rớm dịch, phía ngoài thường có viền róc da mỏng, nếu cọ sát, nhiễm bẩn, trợt loét chảy nước, chảy mủ, rất đau rát. Điều trị: Cần rửa bằng nước thuốc tím 1/4.000, chấm dung dịch nitrat bạc 0,25%, bôi hồ nước, tránh bôi thuốc mỡ. Phòng bệnh: Trẻ em cần năng tắm rửa, thay tã lót, rắc bột talc, phấn rôm vào các nếp kẽ.
Chốc mép (perlech)
Hay gặp ở trẻ em, hai kẽ mép bị nứt trợt, rớm dịch, đóng vảy vàng, đau rát, dễ chảy máu, kèm đau hạch dưới hàm. Điều trị: chấm dung dịch nitrat bạc 0,25%, mỡ kháng sinh.
Viêm quầng (erysipelas)
Là bệnh nhiễm khuẩn da và dưới da do chủng Streptococcus pyogenes độc tố cao. Bệnh có thể gây tử vong kể cả khi điều trị tại bệnh viện trước đây. Nếu trẻ sơ sinh, người già hoặc bệnh nhân có kèm bệnh khác cũng rất nặng. Thời gian ủ bệnh 2 – 5 ngày, khởi phát sốt cao đột ngột, có khi co giật ở trẻ em, đau đầu, sốt rét và nôn. Da vùng bệnh cảm thấy căng, ngày thứ hai thấy đỏ, phù, bóng. Đám viêm quầng màu đỏ tươi, từ vài cm đến hàng chục cm, hơi cao hơn mặt da, nề, cộm, ranh giới rõ, có bờ nhô cao. Đau, nhất là bóp vào thì rất đau. Phù nề mi mắt, sinh dục hoặc ban đỏ có giới hạn rõ, mụn nước ở rìa hoặc có khi là đám phù nề, sưng nóng, đỏ, đau, giới hạn rõ, ở giữa tổn thương là phỏng nước hay bị loét hoại tử. Bệnh nhân sốt cao li bì, hạch gần tổn thương sưng đau. Có thể biến chứng viêm nội tâm mạc, viêm khớp, màng não. Ở trẻ em, tỷ lệ tử vong 50% nếu có biến chứng. Điều trị: chú ý điều trị cả các biến chứng như viêm cầu thận, áp-xe dưới da, nhiễm khuẩn huyết. Dùng kháng sinh mạnh ngay từ đầu. Lưu ý phối hợp điều trị triệu chứng giảm đau, an thần, vitamin các loại.
ThS. Phạm Vũ Hoàng