Vai trò của các chất dinh dưỡng trong quá trình mang thai, suốt thời kỳ cho con bú ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của mẹ và con. Tuy nhiên, còn phải lưu ý dinh dưỡng cho đúng cách để hạn chế tối đa những rắc rối thường gặp trong ăn uống của phụ nữ mang thai.
Vì đâu cơ thể bà bầu gặp rắc rối?
Ở tháng thứ ba của thai kỳ, thể tích máu tăng gấp rưỡi hoặc hơn để đáp ứng nhu cầu vận chuyển các chất dinh dưỡng và ôxy đến thai nhi và mang đi những sản phẩm chuyển hoá dư thừa của thai. Cholesterol, phospholipid, axit béo tự do, và vitamin tan trong nước đều tăng trong thai kỳ cả về số lượng lẫn hàm lượng trong máu. Tốc độ máu lọc qua thận trong suốt quá trình mang thai cũng gia tăng. Dạ dày giảm di chuyển trong quá trình mang thai nên sẽ làm chậm lưu chuyển thức ăn trong ống tiêu hoá, do đó các dưỡng chất sẽ được hấp thu nhiều hơn. Tuy nhiên, điều này lại có thể gây nôn ói và táo bón.
Bồi bổ phải đúng cách
Phụ nữ mang thai cần ăn đa dạng các loại thực phẩm. Nên ăn nhiều bữa để đạt nhu cầu dinh dưỡng. Mỗi bữa nên ăn thêm một chén cơm (cùng với thức ăn) so với khi chưa mang thai. Nhóm bột đường: gạo, nếp, mì, khoai… Nên chọn gạo tốt, không xát kỹ để khỏi mất vitamin B1. Các loại khoai củ có ít chất đạm nên chỉ ăn thêm chứ không ăn thay bữa chính. Cần ăn thức ăn giàu đạm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa và các loại đậu (150 – 170g thịt cá, hoặc 4 – 5 bìa đậu hũ/ngày). Nếu có điều kiện thì mỗi ngày nên uống 2 – 3 ly sữa. Chất béo: nên sử dụng dầu thực vật và chỉ ăn vừa phải. Nên ăn nhiều rau, trái cây tươi mỗi ngày, đặc biệt là rau lá xanh đậm và củ quả vàng cam đậm. Khoảng 3 – 5 chén rau chín, 2 – 4 phần trái cây/ngày. Chất ngọt chỉ ăn vừa phải. Sử dụng muối iốt trong ăn uống và chế biến thực phẩm. Hạn chế tối đa thức uống có cồn (rượu, bia), không uống quá hai ly càphê/ngày (ly 150ml).
Những sự cố thường gặp
Nôn ói: thường xảy ra vào những tháng đầu thai kỳ. Nếu trầm trọng sẽ dẫn đến thiếu protein và năng lượng, chất khoáng, vitamin và điện giải. Khi đó cần chia nhỏ bữa ăn, chế độ ăn nên ít béo và nhiều chất bột đường. Nếu tình trạng này kéo dài thì nên nhập viện để được truyền dịch để tránh mất nước và điện giải.
Nóng rát ngực: thường ở giai đoạn sau của thai kỳ, do tử cung to tạo áp lực lên dạ dày cùng với sự nới lỏng cơ vòng thực quản nên dịch tiêu hoá dễ trào lên thực quản gây nóng rát. Triệu chứng này sẽ giảm bằng cách ăn ít mỗi bữa và không nên nằm ngay sau khi ăn.
Táo bón và trĩ: thường ở giai đoạn cuối thai kỳ do giảm nhu động ruột, ít hoạt động thể lực, và do tử cung to đè lên đại tràng. Những chứng này có thể giảm khi thai phụ ăn nhiều thực phẩm giàu chất xơ và trái cây, uống nhiều nước.
Đái tháo đường thai kỳ: xảy ra khoảng 5 – 10% thai kỳ, phần lớn xuất hiện sau 20 tuần của thai kỳ, thường tự hết sau khi sanh. Thai phụ cần ăn đủ nhu cầu, theo dõi đường huyết thường xuyên, giữ mức đường trong máu ổn định, phòng ngừa tình trạng cạn kiệt nguồn dinh dưỡng dự trữ. Cholesterol khẩu phần không quá 300mg/ngày, hạn chế đường đơn và Na không quá 1.000mg/1.000kcal.
Cao huyết áp thai kỳ: là một hội chứng bao gồm cao huyết áp, đạm niệu, phù nề. Xảy ra khoảng 7 – 8% thai kỳ và thường ở ba tháng cuối. Tình trạng này làm giảm lượng máu đến tử cung dẫn đến thai bị kém nuôi dưỡng.
Tăng cân: tăng cân trong ba tháng đầu phần lớn là tăng mô của mẹ, ba tháng giữa là tăng mô của cả mẹ và thai, ba tháng cuối chủ yếu là tăng trọng của thai nhi. Trong nửa cuối thai kỳ, thai phụ có thể tăng đến 335 – 450g/tuần. Trong suốt thai kỳ, thai phụ cần tăng 10 – 12kg (trong đó, ba tháng đầu tăng 1kg, ba tháng giữa tăng 4 – 5kg, ba tháng cuối tăng 5 – 6kg). Tăng cân tốt, bà mẹ sẽ tích luỹ mỡ là nguồn dự trữ để tạo sữa sau khi sinh. Đối với thai phụ bị béo phì, vẫn cần tăng 6 – 10kg để phát triển thai, bánh nhau và một số mô của mẹ. Đặc biệt chú ý không nên giảm cân lúc mang thai.
Sơ sinh nhẹ cân: trẻ sinh đủ tháng (37 – 40 tuần) nhưng bị nhẹ cân (dưới 2,5kg) là do dinh dưỡng kém trong bào thai, thường xảy ra ở bà mẹ dinh dưỡng kém, vóc dáng thấp lùn và nhẹ cân, cao huyết áp, nhiễm siêu vi, hoặc bệnh lý khác, hoặc bà mẹ nghiện thuốc trước và trong suốt quá trình mang thai làm giảm lượng dưỡng chất và ôxy nuôi dưỡng thai.
Quá trình lớn lên của bào thai
Thai kỳ có thể được chia thành ba giai đoạn sinh lý chính: làm tổ, hình thành cơ quan, và tăng trưởng.
Làm tổ: là giai đoạn hai tuần đầu thai nghén, khi trứng được thụ tinh gắn vào thành tử cung. Trong quá trình này, phôi thai được nuôi dưỡng bởi sữa tử cung (uterine milk) được tiết ra từ những tuyến ở tử cung. Khoảng 1/3 trường hợp thụ thai thất bại ở giai đoạn này.
Hình thành cơ quan: sáu tuần tiếp theo của thai kỳ là giai đoạn phát triển phôi thai. Đây là giai đoạn dễ ảnh hưởng đến sự phát triển thai, và nguy cơ cao bị dinh dưỡng kém do bà mẹ không nhận biết mình mang thai, kết hợp với tình trạng nôn ói, chán ăn làm hạn chế dưỡng chất đưa vào cơ thể. Ở giai đoạn then chốt này, nếu thiếu một số dưỡng chất nhất định có thể dẫn đến khuyết tật bẩm sinh.
Tăng trưởng: bảy tháng còn lại của thai kỳ, các cơ quan tiếp tục phát triển cho đến khi duy trì được sự sống của trẻ khi sanh ra. Sự thiếu dinh dưỡng trong giai đoạn này hoặc sau sanh sẽ ảnh hưởng đến trọng lượng và chiều dài thai nhi hơn là gây ra bất thường trầm trọng của các cơ quan. Nhiều mô vẫn có thể hoạt động bình thường với số tế bào ít hơn và có kích thước nhỏ hơn so với bình thường.