Cho đến nay, chưa có số liệu thống kê tình hình bệnh tật của học sinh trên phạm vi toàn quốc. Nhưng qua kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học tiến hành ở các địa phương, tỷ lệ mắc tật cận thị, rối nhiễu tâm lý, cong vẹo cột sống… ở học sinh Việt Nam tăng lên ở mức báo động.
Trong thời gian 10 năm (từ năm 1998 đến 2009), tỷ lệ học sinh mắc tật khúc xạ ở các bậc học tăng khoảng 2 lần. Cá biệt ở các trường chuyên, lớp chọn tỷ lệ học sinh bị cận thị xấp xỉ 60% . Ở các địa phương khác, tỷ lệ học sinh bị cận thị cũng rất cao. Nghiên cứu của Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh năm 2006 cho thấy, tỷ lệ mắc tật khúc xạ của học sinh thành phố là 38,8%.
Cần có các biện pháp tránh nguy cơ bệnh học đường cho trẻ
Nghiên cứu của Đại học Y Thái Nguyên năm 2007 trên 8.527 học sinh tại 16 trường học các cấp từ tiểu học đến trung học cho thấy, tỷ lệ mắc tật khúc xạ là 11,52%.
Năm 2008, Bệnh viện Mắt TƯ đã điều tra về tật khúc xạ ở học sinh phổ thông ở 3 tỉnh Hà Tĩnh, Hải Phòng, Đà Nẵng trên tổng số 2.280 học sinh cho thấy, tỷ lệ mắc tật khúc xạ ở học sinh là 26,4%. Trong đó, tiểu học là 18,67%, trung học cơ sở là 23,47%, trung học phổ thông là 32,68%, tỷ lệ tật khúc xạ ở học sinh thành thị là 26,9%, nông thôn là 14,4%.
Bệnh rối loạn cảm xúc
Rối loạn tâm thần xếp hàng thứ 10 trong mô hình bệnh tật ở trẻ em Việt Nam. Một khảo sát năm 1998 – 1999 của BV Nhi TƯ tại 2 phường nội thành Hà Nội cho thấy 10% trẻ có rối loạn cảm xúc và 4,9 – 8,7% có các biểu hiện rối loạn tâm thần khác. Năm 2000, trong một điều tra sức khoẻ bệnh tật của trẻ em tại 10 vùng khác nhau đại diện cho toàn quốc thấy, tỷ lệ chung của một số biểu hiện rối loạn tâm thần là 2,24%, trong đó chủ yếu là rối loạn hành vi và rối loạn cảm xúc.
Nguyên nhân làm cho số lượng học sinh mắc bệnh học đường gia tăng là do chế độ học tập căng thẳng, quá tải, yếu tố vệ sinh trong học tập chưa thật sự được cải thiện, hoạt động chăm sóc sức khoẻ và dự phòng bệnh tật trong nhà trường vẫn còn nhiều hạn chế.
Do áp lực của chương trình trong các nhà trường và kỳ vọng của gia đình, học sinh phải dành phần lớn thời gian trong ngày cho học tập: Học chính khoá, ngoại khoá ở trường, học thêm ở các địa điểm tổ chức dạy thêm, học và làm bài tập ở nhà.
Song song với gánh nặng học tập, điều kiện học tập của học sinh ở trường, ở nhà còn có nhiều bất cập. Chiếu sáng không đảm bảo, bàn ghế không phù hợp… càng làm tăng thêm gánh nặng đối với cơ thể non yếu của các em.
Các nhà khoa học thế giới cho rằng, sức khoẻ trẻ em hôm nay phản ánh khuynh hướng sức khoẻ của mỗi dân tộc trong tương lai. Với tình hình bệnh tật học đường như đã nêu ở trên, chúng ta không khó để hình dung sức khoẻ của dân tộc ta trong thời gian tới như thế nào. Vì vậy, phòng chống bệnh tật học đường là một vấn đề cấp bách.