Phần lớn ký sinh trùng xâm nhập vào đường ruột của trẻ qua đường miệng. Việc cho trẻ ăn uống không vệ sinh hoặc trẻ ngậm những thứ mất vệ sinh chính là nguyên nhân đưa trứng ký sinh trùng vào cơ thể của trẻ.
Amip
A-míp là một sinh vật đơn bào sống trong nước hoặc trong thức ăn bẩn, xâm nhập được vào cơ thể người rồi sống bám vào ruột khiến người bệnh đi tiêu chảy, nhiều khi đi ra phân có máu. Trong ruột già của người có khoảng 6-7 loài amip sống ký sinh, trong đó Entamoeba histolytica là tác nhân gây bệnh quan trọng. Khi vào cơ thể sẽ gây ra các tổn thương (lỵ amip) hoặc các tổn thương ngoài ruột như gan, não, da…
Điều trị amip chủ yếu bằng Emetin (là alkaloid chiết xuất từ cây Ipeca), nhóm Imidazole (Metronidazole, Tinidazole, Ornidazole-Thuốc khuếch tán, thâm nhập sâu vào bên trong và phá huỷ hay ức chế sự tổng hợp AND của ký sinh trùng), nhóm di-iodohydroxyquinolin (là những thuốc trị amíp bằng cách tiếp xúc. Thuốc này không dùng cho trẻ còn bú.
Giardiasis
Giardiasis là một loại ký sinh trùng cực nhỏ cư trú trong ruột. Trẻ dễ bị tiêu chảy do nhiễm ký sinh trùng này. Giardiasis có khả năng sinh sôi nảy nở trong ruột và trẻ cần được điều trị bởi một loại thuốc đặc biệt, theo chỉ định của bác sĩ.
Giun kim
Giun kim có tên khoa học là Enterobius vermicularis, màu trắng, dài 10 mm, có thể lây từ người này sang người khác. Giun kim sống ở ruột già, giun cái đẻ trứng ngay ở hậu môn gây ngứa hậu môn. Khi trẻ gãi, giun qua tay lên miệng gây tái nhiễm giun rất nhanh.Giun kim thường di động nên thường gây ra những kích thích, nhất là những kích thích thần kinh đối với trẻ nhỏ như gây đái dầm, ngủ hay bị giật mình, hoảng sợ.
Ngoài ra, khi trẻ bị nhiễm giun kim thường khó ngủ, hay quấy khóc do ngứa hậu môn, thường xuyên bị rối loạn tiêu hóa, phân lỏng, có thể nhìn thấy giun kim ở hậu môn hoặc trong phân. Ở một số bé gái, giun chui vào âm hộ đẻ trứng làm trẻ ngứa, bứt rứt, hay khóc đêm, nghiến răng. Giun kim cũng có thể vào phổi, thực quản, hốc mũi, cổ tử cung và gây viêm các cơ quan này. Giun kim cũng gây rối loạn tiêu hoá: Trẻ thường bị đau bụng, ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá và hấp thu thức ăn, nhất là ở trẻ nhỏ. Giun kim có thể gây viêm ruột thừa, làm thủng ruột…
Có thể dùng một trong các thuốc sau đây để điều trị và dùng liều nhắc lại sau 2 và 4 tuần: Albendazol, mebendazol có thể uống trong bữa ăn hoặc vào bất cứ lúc nào. Điều trị giun kim cho trẻ em cần phải phối hợp với vệ sinh hậu môn cho trẻ.
Giun móc
Giun móc ký sinh chủ yếu ở tá tràng, ngoài ra có thể ở phần đầu ruột non. Giun móc cắn sâu răng móc vào niêm mạc ruột để hút máu và để khỏi bị tống ra ngoài. Trung bình mỗi ngày, một con giun móc có thể hút từ 0,03 – 0,2ml máu. Trẻ em nhiễm giun móc chiếm khoảng 10%. Ấu trùng giun móc xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua da và qua đường miệng. Trẻ nhiễm giun móc thường đau bụng vùng trên rốn, có thể có phân đen, thiếu máu từ từ, da xanh niêm mạc nhợt. Trường hợp nhiễm nặng dễ gây thiếu máu nặng, suy tim và có thể tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Điều trị điều trị giun kết hợp với điều trị thiếu máu. Thuốc: Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun tóc
Do loại Trichiuris Trichiura dài 4 – 5cm sống ở đại tràng. Lây nhiễm do thức ăn, đồ uống sống, bẩn chứa trứng giun.
Điều trị giun tóc bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun đũa
Giun đũa (ascaris lumbricoides) là loại ký sinh trùng đường ruột phổ biến nhất. Trẻ em bị nhiễm giun đũa chiếm từ 80-90%. Giun trưởng thành có kích thước 20 – 40cm x 3 – 6mm, sống được trên 1 năm.
Giun đũa sống ở ruột non của người. Giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài gây ô nhiễm đất, nước. Qua nước, thức ăn, tay bẩn ấu trùng vào cơ thể và trở thành giun trưởng thành. Giun có thể sinh sản tới hàng trăm con trong ruột gây tắc ruột hoặc di chuyển vào đường mật gây áp-xe gan. Trẻ bị nhiễm giun đũa thường đau bụng vùng quanh rốn, nôn ra giun, đi ngoài ra giun, bụng ỏng, gầy yếu. Nếu trẻ đau bụng dữ dội và kéo dài thường là biến chứng của giun như giun chui đường mật, tắc ruột…
Những tác hại do giun đũa gây ra là do chúng đã chiếm thức ăn, chiếm vitamin, đặc biệt là vitamin A ở ruột để phát triển và sinh sản. Chúng còn bài tiết ra chất Askaron, nếu thường xuyên sẽ gây nhiễm độc cho cơ thể. Trong ống tiêu hóa, giun đũa luôn kích thích, làm tổn thương vùng niêm mạc ruột dưới dạng phì đại hoặc mất tế bào. Giun đũa cũng gây rối loạn tiêu hóa và làm giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng, ảnh hưởng tới việc tiêu hóa mỡ, đạm tại ruột dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng…
Có thể dùng một trong các thuốc sau để điều trị giun đũa: albendazol, levamisol, pyrantel pamoat, mebendazol, piperazin. Nhiễm giun đũa, giun móc và giun tóc thường đi kèm với nhau nên có thể điều trị đồng thời bằng albendazol, mebendazol hoặc oxantel, pyrantel pamoat.
Giun lươn
Là loại Strongyloides stercoralis, loại giun này nhỏ dài 2 – 3cm, sống ở đoạn đầu ruột non, ít gặp hơn giun đũa và giun móc; ký sinh nhiều năm trong cơ thể vật chủ. Ấu trùng theo phân ra ngoài và lây nhiễm cho con người qua da khi tắm nước bẩn hoặc đi chân đất trong bùn.
Thường không có triệu chứng đặc hiệu, chỉ có các biểu hiện đau thượng vị, rối loạn tiêu hóa, táo lỏng xen kẽ từng đợt. Cần chú ý khi có sự lan tỏa của ấu trùng vào trong mọi phủ tạng là biến chứng nặng, thường xảy ra ở người suy giảm miễn dịch và thường gây tử vong.
Có thể điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole, nhưng thibendazole mới là thuốc điều trị đặc hiệu.
Sán xơ mít
Gồm Taenia saginata và Taenia solium, đây là loại giun dẹt có đốt, đường kính 2 – 3mm, sán trưởng thành sống ở ruột non, mỗi đốt chứa trứng ra ngoài được bò hoặc lợn ăn phát triển thành nang sán.
Người ăn thịt lợn hoặc bò này không được nấu chín sẽ mắc bệnh. Biểu hiện đau bụng mơ hồ, không rõ ràng, chán ăn hoặc ăn không biết no. Điều trị bằng nicosamid hoặc praziquantel.
Sán máng
Do loài sán dẹt Schistosoma gây ra, xâm nhập cơ thể qua da khi người hoạt động dưới nước. Sán máng và trứng sán ký sinh và gây tổn thương ở ruột, gan, phổi, tim, não, thận, bàng quang… có khi gây tử vong. Trẻ em bị nhiễm sán là một nguyên nhân gây suy dinh dưỡng và chậm lớn.
Điều trị bằng praziquantel, nếu không đáp ứng có thể dùng oxamniquin.
Sán lá gan lớn
Do nhiễm loài sán Fasciola hepatica. Biểu hiện lâm sàng chia làm 3 giai đoạn, biểu hiện cấp tính là giai đoạn ấu trùng vào gan, các triệu chứng sẽ là sốt, đau vùng gan, tăng bạch cầu ái toan, gan to, chức năng gan bị tổn thương; giai đoạn tiềm tàng biểu hiện với các triệu chứng rối loạn tiêu hóa mơ hồ, đây là lúc sán cư trú trong đường mật; giai đoạn tắc nghẽn là hậu quả của viêm và phì đại đường mật.
Thuốc điều trị là Egaten.
Sán lá gan nhỏ
Con trưởng thành sống ở đường mật, đôi khi sống trong ống tụy. Trứng nở trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá, đóng nang, người ăn phải loại cá này chưa nấu chín (chủ yếu do tập quán ăn gỏi cá) sẽ mắc bệnh. Biểu hiện lâm sàng âm thầm và không đặc hiệu với sốt, đau bụng và tiêu chảy. Nếu để lâu dài không điều trị sẽ dẫn đến các biến chứng viêm đường mật, xơ quanh khoảng cửa, có thể xuất hiện ung thư biểu mô đường mật.
Praziquantel là thuốc được lựa chọn hàng đầu trong việc điều trị bệnh sán lá gan nhỏ. Trẻ mắc sán lá gan cần phải được theo dõi điều trị tại các cơ sở y tế có chuyên khoa ký sinh trùng.
Biện pháp phòng tránh ký sinh trùng đường ruột ở trẻ
– Nên cho trẻ ăn chín, uống sôi để đảm bảo an toàn. Tuyệt đối không cho trẻ ăn đồ ăn sống, các món gỏi… Các loại thịt tái, trứng ốp lết còn sống… theo quan niệm của nhiều người thì đó là những thức ăn bổ dưỡng cho trẻ em, nhưng thực ra nó chứa mầm bệnh giun sán rất cao, cũng không tốt cho hệ tiêu hóa của trẻ nhỏ, nhất là những trẻ dưới 5 tuổi.
– Bạn nên chú ý vệ sinh cá nhân cho trẻ, thường xuyên cắt móng tay, tập cho trẻ thói quen rửa tay trước và sau khi ăn uống, sau khi đi vệ sinh…
– Nên sổ (tẩy) giun, sán định kỳ cho trẻ.
Lưu ý
Không tự ý sử dụng thuốc, cần phải có sự chỉ dẫn của bác sĩ trước khi cho trẻ điều trị ký sinh trùng đường ruột.