Tiểu đường (đái tháo đường) thai kỳ – một trong những căn bệnh về rối loạn chuyển hóa tấn công vào thời kỳ mang thai của phụ nữ – đang được quan tâm hàng đầu. Theo một khảo sát của Bệnh viện (BV) Hùng Vương (TP HCM) dựa trên số liệu tổng hợp từ các BV, tỉ lệ thai phụ mắc tiểu đường có xu hướng tăng dần trong những năm qua, từ 2,1% năm 1997 lên 4% năm 2007 rồi 11% năm 2008; trong khi tại Hà Nội là 5,7% vào năm 2004.
Dễ gặp ở người thừa cân
Theo TS-BS Lê Thị Thu Hà, Phó trưởng Khoa Sản A BV Từ Dũ (TP HCM), trong những năm 2001-2004, các khảo sát tại Việt Nam cho thấy tỉ lệ phát hiện bệnh tiểu đường vào khoảng 3%-4%. Tuy nhiên, đến năm 2012, tỉ lệ này đã tăng lên mức 20% trên số thai phụ khám tại các BV, cơ sở y tế chuyên khoa.
BS Hà cho rằng có thể định nghĩa đơn giản tiểu đường là một hội chứng liên quan đến rối loạn chuyển hóa chất đường trong cơ thể, dẫn đến tăng đường huyết do không sản xuất insulin (nội tiết do một loại tế bào của đảo tụy tiết ra nhằm giúp gan dự trữ đường dư, giúp đường huyết giảm sau bữa ăn), sản xuất insulin không đủ hoặc giảm tác dụng sinh học của insulin lên tế bào đích.
Tiểu đường được chia làm type 1 (phụ thuộc insulin, xuất hiện ở người trẻ do trong huyết tương không có insulin) và type 2 (không phụ thuộc insulin, xuất hiện ở người trưởng thành và cần tiết chế ăn uống, tập thể dục trong quá trình điều trị). Tiểu đường thai kỳ cũng chia làm hai loại: Trước thai kỳ – tức người đã biết có bệnh trước khi mang thai, đang được theo dõi điều trị và trong thai kỳ – đái tháo đường do thai gây ra.
Tiểu đường do thai gây ra là tình trạng biến dưỡng đường vốn bình thường trước đây trở nên rối loạn khi mang thai và trở về bình thường sau sinh khoảng 6 tuần. Sự rối loạn biến dưỡng này gây nên bởi ảnh hưởng của các nội tiết thai kỳ như progesteron, estrogen, hPL (human placental lactogen)…
Theo BS Nguyễn Ngọc Thông, Giám đốc Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản TP HCM, nhóm người có nguy cơ bị tiểu đường thai kỳ nhiều nhất vẫn là những phụ nữ béo phì và có chế độ dinh dưỡng thiếu hợp lý khi mang thai. “Những người thừa cân được khuyến cáo không nên tăng quá 8 kg khi mang thai. Thậm chí, nếu thừa cân quá nhiều thì không cần tăng cân vẫn được. Tuy nhiên, tuyệt đối không được giảm cân bởi ép cân khi mang thai rất nguy hại” – BS Thông cho biết.
Trong khi đó, BS Hà lưu ý: “Ăn ngọt quá nhiều và thiếu cân khi mang thai cũng dễ gây rối loạn chuyển hóa, dẫn tới tiểu đường. Tăng cân quá nhanh do ăn quá ngọt, quá béo cũng là yếu tố nguy cơ. Bên cạnh chế độ dinh dưỡng, những người có tiền căn tiểu đường thai kỳ trong lần mang thai trước, từng sinh con trên 4 kg, tăng trọng nhanh trong thai kỳ, ít vận động thể lực, có các bệnh đi kèm như tim mạch, cao huyết áp, hội chứng buồng trứng đa nang… cũng nằm trong nhóm nguy cơ”.
Nguy hiểm cho cả mẹ lẫn con
BS Thông khuyến cáo: “Người bị tiểu đường thai kỳ cần được điều trị với sự liên kết của BS sản khoa và BS nội tiết. Nếu chỉ lo cho thai mà không điều trị tiểu đường thì thai kỳ đó sẽ gây ra nhiều nguy hại cho cả mẹ lẫn con. Ngược lại, nếu điều trị tiểu đường mà không thông báo rõ tình trạng mang thai với BS và không theo dõi sát sao, rất có thể thai sẽ bị ảnh hưởng bởi quá trình trị bệnh”.
Theo BS Hà, có rất nhiều nguy cơ đối với thai kỳ của người bị tiểu đường. Ảnh hưởng trên mẹ bao gồm: Nguy cơ tiền sản giật và sản giật tăng gấp 4 lần; nhiễm trùng dễ xảy ra và thường nặng hơn, nhất là viêm, bể thận; thai to dẫn đến sang chấn lúc sinh; tỉ lệ mổ lấy thai cao hơn, đồng nghĩa nguy cơ do phẫu thuật cũng tăng lên; dễ băng huyết sau sinh; tăng nguy cơ rối loạn tuần hoàn và hô hấp vì tỉ lệ thai to và đa ối tăng…
Đứa trẻ cũng đối mặt với nhiều nguy cơ khác, như: Tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, tiểu đường về sau và thiểu năng tâm – thần kinh; thai to dễ bị sang chấn như gãy xương đòn, trật khớp vai; dễ suy hô hấp do insulin tăng cao làm kháng corticoids, dẫn đến giảm chế tiết surfactans, giảm sự trưởng thành của phổi; dễ bị rối loạn chuyển hóa sau sinh như hạ đường huyết, hạ canxi huyết, tỉ lệ tử vong chu sản tăng 2-5 lần…
Theo BS Thông, hội chứng này còn làm tăng nguy cơ sẩy thai, thậm chí dẫn đến hiện tượng thai chết lưu muộn (trên 32 tuần), ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và tâm lý của thai phụ.
Tiểu đường thai kỳ có thể bị duy trì sau giai đoạn thai nghén và trở thành tiểu đường type 2 sau này. Do đó, người bị tiểu đường thai kỳ nên có chế độ tiết chế ăn uống và vận động thể lực hợp lý khi mang thai và sau khi sinh.
Có thể phát hiện khi khám thai
Theo BS Nguyễn Ngọc Thông, tiểu đường thai kỳ có thể được phát hiện qua một số xét nghiệm đơn giản khi thai phụ đi khám. Khi được điều trị giúp đường huyết ổn định thì các nguy cơ cho mẹ và bé sẽ giảm rõ rệt. Thai phụ trong nhóm có nguy cơ hoặc đã từng mắc tiểu đường thai kỳ nên tìm đến cơ sở chuyên khoa lớn như ở các BV tuyến tỉnh trở lên, có đầy đủ phương tiện để được theo dõi thai chặt chẽ hơn.