Bại liệt hay viêm tủy xám (poliomyelite) là một bệnh lây truyền qua đường ruột do virus do làm tổn thương các tế bào sừng trước của chất xám tủy sống.
Tác nhân gây bênh:
Tác nhân gây bệnh bại liệt là virus bại liệt ( poliovirus) là một loại virus hình cầu, kích thước nhỏ ( 8-27nm), có cấu tạo là ARN và protein không có chất béo. Virus bại liệt có sức chịu đựng cao với ngoại cảnh: trong phân người chúng sống được vài ngày đến vài tuần, trong nước có thể sống đến 14 ngày. Nó dễ bị diệt bởi các các thuốc khử trùng thông thường như: Chloramin B, H2O2, thuốc tím và tia cực tím… Ở 600C virus bị diệt trong 30 phút.

Virus bại liệt ở tỉ lệ phóng đại 90.000 lần.
Virus bại liệt vào cơ thể người bằng đường tiêu hóa, cũng có thể bằng đường hô hấp, như qua amidan và các hạch ở họng. Bệnh sẽ phát triển dễ dàng nếu cơ thể bị mệt mỏi hoặc bị chấn thương (sau cắt amidan). Đường tiêu hóa không những là đường vào mà còn là nơi sinh sản đầu tiên của virus. Sau đó virus theo máu lan truyền khắp cơ thể và vào hệ thần kinh trung ương.
Bệnh bại liệt có thể truyền bằng giọt nước bọt. Virus có thể tìm thấy ở tỵ hầu người bệnh và người mang virus . Cũng như các bệnh nhiễm trùng đường ruột khác, các yếu tố truyền nhiễm là nước, thực phẩm, ruồi và các yếu tố khác gọi là tiếp xúc sinh hoạt, vì virus polio có sức chịu đựng tốt trong môi trường bên ngoài.
Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 3 tuổi, thấp hơn ở lứa tuổi sắp đi học và rất thấp ở các lứa tuổi khác.
Triệu chứng thường gặp trong bệnh bại liệt:
Thể thông thường, điển hình:
Sau 7- 14 ngày ủ bệnh, bệnh khởi phát với sốt nhẹ, viêm đường hô hấp trên (ho khan, hắt hơi, chảy nước mũi, giọng nói khàn); rối loạn tiêu hóa ( nôn, buồn nôn, đi cầu phân bón hoặc lỏng). Rối loạn thần kinh thực vật ( vã mồ hôi…); li bì, vật vã, hay kêu khóc; đau và co cứng các cơ, nhức đầu nhiều.
Bước vào thời kì toàn phát, bệnh nhân bị liệt đột ngột và nhanh, thường xuất hiện vào khoảng ngày thứ 4-7 của bệnh, khi nhiệt độ cơ thể đã trở về mức bình thường hoặc hết sốt trước đó 1-2 ngày. Các cơ bị liệt thường yếu, trương lực cơ giảm, mất hoặc giảm phản xạ gân xương và phản xạ da, cơ teo nhanh. Các cơ này không có các rối loạn cảm giác kèm theo.
Đặc điểm của liệt trong bại liệt : liệt ngoại vi, không đối xứng và liệt không theo thứ tự nhất định.
Một số thể lâm sàng khác:
Thể không có triệu chứng lâm sàng: chiếm 80 – 85% các thể bệnh.
Thể nhẹ: chiếm 4-8% , biểu hiện bệnh với viêm long đường hô hấp trên, rối loạn tiêu hóa, một số triệu chứng giống cúm.
Thể không liệt: chiếm khoảng 10%.
Hậu quả của bệnh bại liệt:
Liệt trong bệnh bại liệt có thể dẫn đến tê liệt cơ bắp tạm thời hoặc vĩnh viễn, tàn tật, biến dạng của hông, khung chậu, mắt cá chân và các bàn chân. Mặc dù có nhiều dị tật có thể sửa chữa bằng phẫu thuật và vật lý trị liệu – phục hồi chức năng. Kết quả là, những trẻ sống sót sau bệnh bại liệt thể điển hình có thể sống với cuộc sống bị khuyết tật nặng.
Speak Your Mind