Sức khỏe & Y tế https://meyeucon.org/suckhoe Just another net.meyeucon.org site Wed, 30 Nov 2016 16:16:39 +0700 en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.1.1 Chế độ dinh dưỡng cho người bị béo phì https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/27/che-do-dinh-duong-cho-nguoi-bi-beo-phi/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/27/che-do-dinh-duong-cho-nguoi-bi-beo-phi/#respond Thu, 27 Sep 2012 07:30:47 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8673 Những bệnh nhân béo phì ngoài chế độ tập luyện thể lực phù hợp còn phải kèm theo một chế độ dinh dưỡng hợp lí, đảm bảo giảm trọng lượng trong thời gian ngắn mà không ảnh hưởng đến tình hình sức khỏe hiện thời (không làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe đang mắc phải) và cải thiện các nguy cơ mắc các bệnh khác.

Nguyên tắc trong dinh dưỡng hằng ngày

Nguyên tắc cần được thực hiện trong dinh dưỡng hàng ngày của bệnh nhân béo phì là:

– Không ăn quá nhiều, không ăn vượt quá nhu cầu cần thiết.

– Giảm năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn.

– Sử dụng thay thế các loại thực phẩm có chất dinh dưỡng thấp, giàu calo bằng các nhóm thực phẩm có chất dinh dưỡng cao, ít năng lượng.

– Năng lượng đưa vào cơ thể không dưới 800 kcal/ngày.

Chế độ tiết thực giảm trọng lượng

Dùng nhiều các loại trái cây, các loại rau và những loại hạt, ngũ cốc

Chế độ tiết thực giảm trọng lượng cho bệnh nhân béo phì gồm tiết thực ít mỡ (các chất béo không bão hòa) giúp cải thiện được bệnh mạch vành; tiết thực giảm muối trong khẩu phần ăn hàng ngày, giúp giảm nguy cơ tăng huyết áp và các bệnh về thận.

– Giảm các thức ăn giàu carbohydrat (khoai, gạo, bánh mì,…)

– Tỷ lệ protein đưa vào cơ thể tối đa là 15% toàn bộ năng lượng cần thiết và mức cholesterol phải <200mg/ ngày. Nên sử dụng các loại thực phẩm ít mỡ nhưng vẫn đảm bảo được protide cho cơ thể như thịt nạc trắng (cá, thịt gà) các loại hải sản như tôm, cua,…

– Dùng nhiều các loại trái cây, các loại rau và những loại hạt, ngũ cốc (đậu đỗ các loại, gạo tẻ, …) giàu chất khoáng, vitamin và chất xơ.

– Nên uống sữa (sữa đậu nành, sữa tươi không đường, sữa tách bơ, sữa chua) và nước hoa quả thường ngày.

– Uống nhiều nước. Có thể uống một cốc nước trước khi ăn cơm, giúp bệnh nhân nhanh no hơn, ăn ít hơn.

– Hạn chế đường và các loại thức ăn ngọt. Không ăn các loại nội tạng động vật ( hàm lượng cholesterol cao).

– Trong chế biến thức ăn, nên ăn các món luộc hoặc hấp, salad, tránh chiên xào, rán sử dụng nhiều dầu mỡ. Thay thế các loại dầu mỡ động vật bằng dầu thực vật như dầu đậu nành, dầu mè, dầu ô liu.

– Người béo phì và béo có nguy cơ nên ngừng hoặc hạn chế uống rượu, café, bỏ hẳn thuốc lá.

– Nên chú trọng bữa sáng, ăn vừa phải bữa trưa và bữa tối nên ăn ít (không ăn quá no sau 5h chiều). Nên chia khẩu phần ăn thành các bữa nhỏ, có thể ăn 5 bữa/ngày.

Các món ăn nên luộc, hấp, salad, tránh chiên xào, rán sử dụng nhiều dầu mỡ

Lưu ý

Người béo phì nên kiên trì thực hiện chế độ tiết thục và luyện tập với ý chí cao, tránh bỏ cuộc giữa chừng khi chưa thấy hiệu quả, ăn uống quá đà làm cân nặng càng tăng hơn.

Thay đổi chế độ dinh dưỡng và thói quen ăn uống không phải là điều dễ làm trong thời gian ngắn và phải tùy thuộc vào tình hình sức khỏe, tuổi tác, công việc của mỗi người, kết hợp với luyện tập thể dục thường xuyên, giảm năng lượng đưa vào cơ thể nhưng vẫn phải cung cấp đủ năng lượng cần thiết để bệnh nhân vẫn có thể thực hiện lao động (trường hợp không phải điều trị ở bệnh viện). Cần theo dõi cân nặng thường xuyên (1 lần/tuần) để điều chỉnh chế độ dinh dưỡng và luyện tập hợp lí.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/27/che-do-dinh-duong-cho-nguoi-bi-beo-phi/feed/ 0
Bệnh béo phì ở trẻ em https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/26/benh-beo-phi-o-tre-em/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/26/benh-beo-phi-o-tre-em/#respond Wed, 26 Sep 2012 08:30:12 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8656 Đối với những nước đã phát triển và đang phát triển, bệnh béo phì là một trong những mối hiểm họa cho tương lai, không những ở người trưởng thành, người trong độ tuổi lao động, những bà nội trợ ở nhà, mà còn là vấn đề lo ngại cho cả những mầm nhỏ – những thế hệ tương lai của đất nước, đó chính là béo phì trẻ em.

Khái niệm

Béo phì ở trẻ em là sự tăng quá mức của lượng mỡ dự trữ trong nhiều năm dẫn đến cân nặng tăng bất thường, quá mức so với chiều cao của trẻ em.

Theo các bác sĩ nhi khoa thì một đứa trẻ được xem là béo phì, hay thừa cân thái quá khi cân nặng của nó lớn hơn mức trung bình so với chiều cao và độ tuổi từ 20% trở lên. Nếu con số này vượt quá 40% thì bác sĩ sẽ thường khuyến cáo trẻ tham gia tích cực vào chương trình giảm cân đặc biệt dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.

Cách sớm nhất để bà mẹ phát hiện  xem trẻ có béo phì hay không là nhìn hai cánh tay và bắp đùi đứa trẻ: Nếu có những cuốn mỡ ngấn lên thì có khả năng đứa trẻ là béo phì.

Nguyên nhân của béo phì trẻ em

Nguyên nhân dẫn đến béo phì, nói chung là giống nhau giữa người lớn và trẻ em, bao gồm một số yếu tố nguy cơ như:

– Di truyền: Theo các nghiên cứu khoa học  thì trẻ em có nguy cơ béo phì nếu bố hoặc mẹ béo phì, nguy cơ càng cao khi cả bố mẹ đều béo phì. Nhưng thực chất thì chỉ yếu tố di truyền không đủ làm cho trẻ bị thừa cân béo phì, mà do trẻ ăn uống quá nhiều, quá nhu cầu cơ thể. Thói quen sinh hoạt của gia đình là nguyên nhân chính mang tính “di truyền” dẫn đến hiện tượng trẻ béo phì.

– Thói quen ăn uống: ăn nhiều thức ăn giàu chất béo và có năng lượng cao (các thức ăn sẵn, nước ngọt, các loại bánh kẹo ngọt,…); Ăn quá nhiều đường và các loại đồ ăn ngọt…

– Không hoạt động thể lực

–  Trẻ nhỏ không tập thể dục (trẻ lười hoạt động, hay là học tập bố mẹ và các anh chị em trong nhà không ai tập thể dục)

– Trẻ  dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tĩnh tại như xem ti vi, xem hoạt hình, chơi điện tử, chơi các trò chơi điều khiển từ xa,… Đặc biệt ở các thành phố, đô thị, trẻ đi học về không được vui đùa chạy nhảy cùng các bạn mà chỉ được ở trong nhà.

– Một số nguyên nhân khác do nội tiết.

Ăn nhiều thức ăn giàu chất béo và có năng lượng cao (các thức ăn sẵn, nước ngọt, các loại bánh kẹo ngọt,…)

Hậu quả của béo phì trẻ em

Chứng béo phì ở trẻ em có hậu quả rất nghiêm trọng. Những đứa trẻ béo phì thường có khuynh hướng sẽ trở thành những người béo mập khi lớn lên, hoạt động chậm chạp hơn các trẻ khác. Dẫn đến sự thiếu tự tin về bản thân, dễ bị trẻ em khác trêu đùa, làm cho trẻ ít khi có cơ hội tham gia các trò chơi tập thể cùng các bạn. Chính điều này làm cho dễ bị tổn thương, cô độc dễ mắc các chứng bệnh như tự kỷ.

Ngoài ra, béo phì ở trẻ em cũng để lại một số hậu quả như ở người lớn như làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, thoái hoá các khớp đặc biệt là những khớp chịu tác động nhiều của trọng lực như khớp gối, dễ bị biến chững đái tháo đường, tăng khả năng ung thư, bị cao huyết áp, các bệnh về hô hấp, các bệnh lý về thận và ung thư xương…

Điều trị béo phì trẻ em

Trẻ em béo phì cũng được điều trị theo các bước cơ bản như người lớn, kết hợp tiết thực giảm trọng lượng, tăng cường các hoạt động thể lực, thay đổi lối sống và thói quen ăn uống không có lợi cho sức khỏe, và tùy vào tình hình mà có thể điều trị bằng thuốc hay phẫu thuật dạ dày.

Thói quen ăn uống từ nhỏ sẽ tạo tiền đề cho một sức khỏe tốt sau này, nhưng thực tế là trẻ em không tự quyết định được chế độ ăn và hoạt động của mình mà phải phụ thuộc vào định hướng và hành vi can thiệp của gia đình hay nhà trường. Hãy thay đổi ngay từ bây giờ để có một tương lai tốt nhất cho trẻ em – mầm xanh tương lai của đất nước.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/26/benh-beo-phi-o-tre-em/feed/ 0
Những phương pháp điều trị bệnh béo phì https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/25/beo-phi-va-cach-dieu-tri/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/25/beo-phi-va-cach-dieu-tri/#respond Tue, 25 Sep 2012 07:30:13 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8645 Béo phì thường dẫn đến một số hậu quả như: bị đái tháo đường type 2, các bệnh liên quan đến tim mạch, làm giảm tuổi thọ, tăng nguy cơ ung thư… Bệnh béo phì đang và sẽ là một mối hiểm họa cho thế hệ tương lai của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Vì vậy, điều trị bép phì ngày càng được quan tâm.

Theo mô hình đang được nhiều nước sử dụng hiện nay, có 3 phương pháp chính để điều trị béo phì, đó là:

– Tiết thực giảm trọng lượng

– Tăng năng lượng tiêu dùng

– Thay đổi chuyển hóa thức ăn

Giảm trọng lượng là mục tiêu chính của điều trị, với giảm trọng lượng ở mức nhẹ từ 5% đến 10% so với trọng lượng ban đầu. Bằng tiết thực và tập thể dục cũng cải thiện lâm sàng có ý nghĩa, cải thiện được bệnh tăng huyết áp, bất thường glucose máu.

Có một số ít trường hợp, với tiết thực và tập thể dục vẫn không làm giảm trọng lượng và đây gọi là béo không chữa trị được, đây chính là lí do người ta nghĩ đến phương pháp chữa trị sử dùng thuốc hoặc phẫu thuật.

Nếu lượng calo cung cấp giảm dưới 500kcal/ mỗi ngày thì sẽ làm mất trọng lượng khoảng 0,5kg/tuần

Phương pháp 1: Tiết thực giảm trọng lượng

– Là cách đầu tiên mà người béo phì nên nghĩ đến và được áp dụng một cách rộng rãi.

– Cách thức chính là tiết thực giảm calo,giảm mỡ và vài thức ăn có khả năng giảm sinh năng lượng cho cơ thể. Nếu năng lượng đưa vào thấp hơn nhu cầu sinh lý thì năng lượng thêm vào để tiêu dùng là từ mô dự trữ. Khi không có thức ăn đưa vào, năng lượng được rút ra từ mô dự trữ là 1500- 3000 kcal. Mỡ trong cơ thể chứa 7500 kcal/kg. Với mức cân bằng calo âm tính trong ngày là 1500 kcal, trọng lượng cơ thể sẽ giảm 1kg mỗi 5 ngày. Làm giảm trọng lượng khoảng từ 0,5 – 1kg/tuần là thích hợp cho một tiết thực giảm trọng lượng.

– Nói chung lượng calo dung nạp và cần giảm mỗi ngày phải dựa vào cân nặng, tuổi, và tình hình sức khỏe bệnh nhân, một yếu tố đóng vai trò quan trọng nữa là động lực và ý chí thực hiện. Nếu lượng calo cung cấp giảm dưới 500kcal/ mỗi ngày thì sẽ làm mất trọng lượng khoảng 0,5kg/tuần. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân có thói quen ăn nhiều, chấp nhận hạn chế thức ăn trong cuộc sống thường ngày là rất khó khăn.

– Điều đặc biệt lưu ý ở đây là, không phải tiết thực giảm trọng lượng là nhịn đói hoàn toàn. Sử dụng phương pháp điều trị nhịn đói, cách này rất nguy hiểm nên cần phải cho nhập viện và dưới sự theo dõi chặt của các bác sĩ hoặc chuyên gia (chỉ dành cho béo phì khó điều trị, nhịn đói gây dị hóa mô mỡ và protein, giảm natri và có thể gây tổn thương gan).

– Chế độ tiết thực và dinh dưỡng cho bệnh nhân béo phì sẽ được nói kỹ hơn nữa ở chuyên đề sau.

Phương pháp 2: Hoạt động thể lực và tập thể dục

– Hoạt động thể lực và tập thể dục làm tăng sự tiêu dùng năng lượng , là điều trị đầu tiên cho những bệnh nhân quá tải và béo phì. Mục đích của quá trình luyện tập nhằm:

  • Cải thiện được đường máu
  • Giảm đề kháng insulin
  • Giảm trọng lượng
  • Cải thiện lipoprotein (giảm cholesterol xấu và tăng cholesterol tốt, nên giảm được xơ vữa động mạch
  • Tác dụng tốt đến hệ tim mạch (tăng khả năng sử dụng oxy,làm chậm lại nhịp tim lúc nghỉ ngơi và lúc gắng sức, giảm huyết áp, giảm nguy cơ tắc mạch, và giảm tần suất tử vong do bệnh mạch vành)
  • Làm gia tăng tính dẻo dai, tăng sức lực

Hoạt động thể lực và tập thể dục làm tăng sự tiêu dùng năng lượng

– Tập thể dục giúp tiêu thụ năng lượng nhưng cũng đồng thời tăng ngon miệng. thực chất nếu năng lượng được tiêu dùng không tăng, thì việc giảm trọng lượng là rất khó khăn bởi vì khó mà duy trì được sự giảm thức ăn đưa vào.

– Nên gia tăng hoạt động thể lực từ từ như tập thể dục 10 – 30 phút/ngày cho đến khi đạt 300 phút/ tuần.

– Vận động thể lực thường được sử dụng là đi bộ, chạy bộ, đạp xe hay bơi lội,…( đốt cháy 100calo tương đương với khoảng 10g chất béo phải đi bộ 20 phút, bơi hoặc đánh tennis 12 phút, 8 phút đạp xe hoắc chạy bộ)

Tuy nhiên, tập thể dục cũng không làm tốt được với những người quá béo, di chuyển cơ thể nặng nề vì vậy thường đau khớp, ngoài ra bệnh tim mạch nặng cũng hạn chế luyện tập.

Phương pháp 3: Điều trị béo phì bằng thuốc

Sau 12 tuần tiết thực giảm trọng lượng và luyện tập thể dục mà cân nặng của bệnh nhân béo phì không được cải thiện thì được chỉ định dùng thuốc. Tất cả các thuốc đều có tác dụng phụ, làm mất sự ăn ngon miệng, giảm trọng lượng nên chỉ được dùng sau khi đã cân nhắc giữa lợi ích và tác hại của cách điều trị này.

Sau 12 tuần tiết thực giảm trọng lượng và luyện tập thể dục mà cân nặng của bệnh nhân béo phì không được cải thiện thì được chỉ định dùng thuốc.

– Thuốc điều hòa thụ thể adrenalin hoặc thụ thể serotonine.

– Thuốc làm gia tăng tiêu thụ năng lượng

– Thuốc có tác dụng biến đổi chuyển hóa chất dinh dưỡng

– Thuốc làm giảm tiêu hóa thức ăn hoặc gây biến đổi chuyển hóa: Các thuốc thuộc nhóm này giúp bệnh nhân có cảm giác mau no khiến họ ăn ít hơn, thích hợp với những người có cảm giác mau đói và thèm ăn nhiều. Song, thuốc loại này vẫn có một vài tác dụng ngoài ý muốn như khô miệng, táo bón, đau đầu nhẹ, và có thể là tăng nhịp tim ở một số hiếm người, vì vậy cần lưu ý khi được chỉ định điều trị.

– Thuốc làm mất sự ngon miệng: Nhóm thuốc này làm giảm ngưỡng ngon miệng (do tác dụng trung ương thần kinh làm bệnh nhân có cảm giác no sớm) và tăng sinh nhiệt, giảm vận tốc biến dưỡng nên giảm trọng lượng.

Phương pháp 4: Phẫu thuật

Đây là trường hợp ngoại lệ, chỉ áp dụng cho dạng béo phì quá trầm trọng, đe dọa sự sống của chính bệnh nhân ( những người quá >50% trọng lượng lý tưởng, và <45 tuổi)

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/25/beo-phi-va-cach-dieu-tri/feed/ 0
Béo phì dẫn đến những hậu quả gì? https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/21/beo-phi-va-hau-qua/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/21/beo-phi-va-hau-qua/#respond Fri, 21 Sep 2012 01:30:05 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8575 Những người béo phì cân nặng sẽ tăng quá mức (120% – 130% so với trọng lượng lý tưởng. Nguy cơ của quá tải trọng lượng là gây nên nhiều bệnh thậm chí xuất hiện sớm và gây tử vong. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có sự tương quan rất có ý nghĩa giữa béo phì dạng nam (béo dạng quả táo) và các biến chứng về chuyển hóa, và các hoạt động chức năng của các hệ cơ quan.

1.Biến chứng về tim mạch

Béo phì là một trong những yếu tố nguy cơ cho bệnh lí tim mạch như:

Tăng huyết áp: tần suất tăng huyết áp tăng trong béo phì bất kể nam hay nữ, huyết áp giảm khi giảm cân.

– Suy mạch vành: là biến chứng thường gặp ở người béo phì ngay cả khi không có thêm các yếu tố nguy cơ khác như đái tháo đường, tăng lipid máu, tăng huyết áp.

– Các biến chứng khác như suy tim trái, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và có thể là đột quỵ.

2. Biến chứng ở phổi

– Giảm chức năng hô hấp bình thường do lồng ngực di động kém (cơ hoành thành ngực di động kém do quá béo).

– Hội chứng pickwick: ngưng hô hấp lặp đi lặp lại và giảm thông khí trong lúc ngủ (hội chứng ngưng thở khi ngủ).

3. Biến chứng về nội tiết

– Tăng insulin máu và đái tháo đường tuýp 2. Béo phì toàn thân và béo bụng là yếu tố nguy cơ dẫn đến tiểu đường tuýp 2. Phụ nữ béo phì có nguy cơ tiểu đường cao gấp 2 – 3 lần so với những người bình thường.

– Chức năng nội tiết sinh dục rối loạn: giảm khả năng sinh sản. Ở những người béo phì, các mô mỡ sẽ làm rối loạn buồng trứng, hàng tháng trứng không lớn lên và chín, rụng được, chất lượng trứng kém, chu kỳ kinh thường kéo dài, rối loạn kinh nguyệt. Trong nhiều trường hợp người béo phì thái quá thì mỡ quá nhiều sẽ lấp kín buồng trứng và gây vô kinh. Gây rậm lông.

4. Biến chứng về xương khớp

Tại các khớp chịu lực cao (khớp gối, khớp háng, cột sống) dễ bị đau, thoái hóa khớp

– Tại các khớp chịu lực cao (khớp gối, khớp háng, cột sống) dễ bị đau, thoái hóa khớp.

– Tần suất hoại tử thiếu máu đầu xương đùi gia tăng. Ngoài ra thường gặp một số trường hợp thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống.

– Đặc biệt các biến chứng này tăng lên ở phụ nữ mãn kinh.

5. Các biến chứng khác

– Những người béo phì thì nguy cơ ung thư gia tăng. Ung thư tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư vú gặp ở nữ giới và ung thư đại tràng, ung thư tiền liệt tuyến gặp ở nam giới.

– Các biến chứng khác tăng nặng lên do béo phì như:

  • Gan mật: Sỏi mật, gan nhiễm mỡ
  • Tiêu hóa: nhu động ruột giảm gây đầy hơi, táo bón.
  • Thận: Tắc tĩnh mạch thận, protein niệu.
  • Sản khoa: Nhiễm độc thai nghén, khó sinh (làm cho tỷ lệ mổ lấy thai tăng)
  • Da: Rạn da, nấm kẽ, tăng sừng hóa gan bàn chân, bàn tay. Loét do áp lực (tư thế nằm hoặc ngồi).

– Ở những người béo phì bệnh lý (tăng trên 130% so với trọng lượng lý tưởng) có nguy cơ lớn hơn về giảm tuổi thọ, bất động và tăng nguy cơ phẫu thuật.

– Đối với trẻ em, các biến chứng của béo phì cũng rất nguy hiểm, sẽ được đề cập sau ở phần béo phì trẻ em.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/21/beo-phi-va-hau-qua/feed/ 0
Những nguyên nhân gây nên tình trạng béo phì https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/19/nhung-nguyen-nhan-gay-nen-tinh-trang-beo-phi/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/19/nhung-nguyen-nhan-gay-nen-tinh-trang-beo-phi/#respond Wed, 19 Sep 2012 08:00:04 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8564 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến béo phì, có thể là sự tác động độc lập hay có sự kết hợp của một trong các yếu tố nguy cơ sau: ăn nhiều, quá tải calo, di truyền, nội tiết, thuốc, và mộ số nguyên nhân khác.

1. Ăn nhiều

Lượng thức ăn hấp thu quá nhiều, vượt quá nhu cầu của cơ thể là nguyên nhân chính dẫn đến béo phì (95%). Ăn nhiều có thể là do:

– Thói quen có tính gia đình: thường gặp nhiều người béo hoặc béo phì trong một gia đình.

– Giảm hoạt động thể lực mà không giảm ăn, thường gặp ở những người già, người lớn tuổi ít hoạt động.

Chế độ ăn uống nhiều calo, ăn các thức ăn chế biến sẵn, bỏ bữa ăn sáng, ăn hầu hết lượng calo vào ban đêm, tiêu thụ nhiều calo và ăn phần quá nhiều, tất cả đóng góp cho tăng cân.

2. Quá tải calo

Về phương diện chuyển hóa năng lượng, béo phì là do sự quá tải calo vượt quá nhu cầu cần thiết của cơ thể. Điều này giải thích là vì sao có người ăn nhiều nhưng lại không béo, có người ăn ít nhưng cân nặng vẫn tăng đều đều. Thường thì trong một gia đình, chế độ dinh dưỡng thường giống nhau nhưng lại có kẻ béo người gầy.

Ở những người ít hoặc lười hoạt động thể lực, năng lượng sản sinh ra không được tiêu tốn đi, tích lũy tạo thành mỡ là một trong những nguy cơ gây nên béo phì.

3. Nguyên nhân di truyền

Theo các nghiên cứu khoa học thì 69% người béo phì có bố hoặc mẹ béo phì ; 18% cả bố và mẹ đều béo phì; chỉ có 7% là tiền sử gia đình không có ai béo phì.

Phân định giữa vai trò của di truyền thực sự và vai trò của dinh dưỡng còn chưa được xác định rõ, vì di truyền có tính trội và yếu tố di truyền làm cho khả năng phân chia tế bào mỡ trở nên dễ dàng hơn.

4. Nguyên nhân nội tiết

Tăng cân có thể là sản phẩm của các hoocmon steroid và các nhóm thuốc gây kích thích tâm thần

Nguyên nhân này thường chiếm tỉ lệ hiếm, nhưng hệ nội tiết bị rối loạn có thể dẫn đến béo phì qua các bệnh sau:

– Hội chứng Cushing: mỡ phân bố nhiều ở mặt, cổ, gáy, bụng trong khi tay chân thì gầy nhỏ, khẳng khiu.

– Cường insulin: do u tuyến tụy tiết insulin, kích thích ăn ngon, ăn nhiều uống nhiều, tăng tiêu glucid làm mô mỡ tân sinh.

– Hội chứng béo phì sinh dục: béo phì ở thân và gốc chi, kèm theo suy sinh dục. Biểu hiện ở thiếu niên với biểu hiện ngừng phát dục cơ quan sinh dục, có thể kèm rối loạn khác như đái tháo nhạt, rối loạn thị lực và tâm thần.

– Người bị thiến: mô mỡ sé tăng quanh háng, phần cao của đùi, gần giống như hội chứng béo phì sinh dục.

5. Nguyên nhân do thuốc

Gần đây thuốc được thêm vào danh mục nguyên nhân của các yếu tố béo phì, vì sự gia tăng của dược liệu pháp. Tăng cân có thể là sản phẩm của các hoocmon steroid và các nhóm thuốc gây kích thích tâm thần (thuốc chống trầm cảm, thuốc chống loạn thần,…)

6. Một số nguyên nhân khác

– Thiếu ngủ: nếu ngủ ít hơn 7 tiếng đồng hồ/ ngày sẽ khiến cơ thể thiếu năng lượng, nó sẽ tự bù đắp năng lượng bằng cách ăn nhiều hơn.

– Bỏ thuốc lá: thường gắn liền với tăng cân. Và đối với một số người, có thể dẫn đến tăng cân nhiều như một vài cân một tuần hoặc trong vài tháng, và rất có thể dẫn đến béo phì.

– Sinh con: khi phụ nữ mang thai, cân nặng của họ tăng rất nhanh (khoảng 10- 15 kg với người bình thường, 18kg hoặc hơn đối với những người gầy), và rất khó lấy lại vóc dáng như bình thường sau sinh. Vấn đề dinh dưỡng cho con cũng khiến cho người mẹ phải ăn uống nhiều hơn, điều này góp phần làm tăng tỷ lệ béo phì ở phụ nữ.

Nếu bạn có một hoặc nhiều các yếu tố nguy cơ, nó không có nghĩa là bạn sẽ trở thành một người béo phì. Có thể loại bỏ hầu hết các yếu tố nguy cơ dẫn đến béo phì thông qua chế độ ăn uống hợp lí, hoạt động thể chất, tập thể dục thường xuyên và thay đổi hành vi, lối sống lành mạnh.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/19/nhung-nguyen-nhan-gay-nen-tinh-trang-beo-phi/feed/ 0
Như thế nào là béo phì? https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/18/nhu-the-nao-la-beo-phi/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/18/nhu-the-nao-la-beo-phi/#respond Tue, 18 Sep 2012 08:30:32 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8530 Béo phì là tình trạng ngày càng gia tăng trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia  có mức kinh tế xã hội cao và trong khoảng 15 năm trở lại đây (bao gồm những nước đã và đang phát triển, trong đó có Việt Nam), lứa tuổi cao nhất thường gặp là trên 30 tuổi. Tần suất béo phì phù thuộc vào tuổi, giới tính, địa dư,  tình trạng kinh tế xã hội và một số yếu tố kết hợp khác. Bệnh béo phì đang và sẽ là một mối hiểm họa cho thế hệ tương lai của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng

Định nghĩa béo phì

Béo phì,  theo Tổ chức Y tế thế giới WHO, được định nghĩa là sự quá tải lượng mỡ của cơ thể, đặc biệt liên quan đến chuyển hóa năng lượng, làm giảm tuổi thọ và  kéo theo các hậu quả xấu cho sức khỏe. Hoặc gọi là béo phì khi tăng trên 25% trọng lượng cơ thể, được đánh giá dựa vào kích thước và giới.

Phương pháp đánh giá béo phì

Để đánh giá mức độ béo phì, ta sử dụng công thức chỉ số khối cơ thể  BMI (Body Mass Index).  Để phù hợp với đặc điểm trưng vùng qua nghiên cứu thực tế ở các quốc gia châu Á, WHO đã chính thức đồng ý cho các quốc gia châu Á lấy tiêu chuẩn ban hành tháng 2/2000 làm tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh béo phì.

BMI= cân nặng/ (chiều cao* chiều cao) m

 Phân loại BMI (kg/m2)
Gầy  < 18,5
Bình thường 18,5 – 22,9
Béo:Có nguy cơ (thừa cân)Béo phì độ 1

Béo phì độ 2

>= 2323 – 24,925 – 29,9

>30

Ví dụ: một phụ nữ Việt Nam cao 155cm và nặng  60kg, BMI của người này sẽ là    60/(1,55 *1,55) = 24,97. Người này béo có nguy cơ trở thành béo phì độ 1.

Như vậy, theo Bảng phân loại trên thì người Việt Nam chúng ta nên có BMI khuyến cáo từ  18,5 – 22,9. Thường thì đối với những người trẻ tuổi, đặc biệt là các bạn gái, chỉ số BMI lý tưởng nhất là từ 18,5 – 20. Còn đối với những người lớn tuổi thì chỉ số BMI lý tưởng là 20 – 22.

Phân loại béo phì

Béo phì dạng quả táo

Béo phì theo tuổi:

  • Béo phì xảy ra ở tuổi trưởng thành (thể phì đại) là do số tế bào mỡ cố định và tăng trọng do tích tụ quá nhiều lipid trong mỗi tế bào.
  •  Béo phì tuổi trẻ (thể tăng sản phì đại), có nghĩa là các tế bào mỡ này tăng cả về số lượng lẫn kích thước (loại này thường khó điều trị hơn).

 Béo phì dựa theo sự phân bố mỡ trên cơ thể:

Béo phì toàn thân

  • Béo phì quả táo:thường gặp ở nam giới, mỡ phân bố ưu thế ở phần cao của cơ thể, trên rốn, gáy cổ, vai ngực, bụng, bụng trên rốn.
  • Béo phì quả lê: thường gặp ở nữ giới, mỡ phân bố ưu thế ở bụng dưới rốn, háng, đùi, mông và cẳng chân, và đây là dạng béo phì thường hay gặp nhất.
  •  Béo phì toàn thân: mỡ  phân bố đều toàn thân ở các vùng mặt, cổ, vai, ngực, bụng, mông, đùi, cẳng chân .

Như vậy, việc theo dõi và duy trì cân nặng ở mức cho phép giúp cho bạn không những có một thân hình cân đối, một dáng vẻ tự tin mà còn là một tình trạng sức khỏe tốt. Béo phì là bệnh có thể điều trị được bằng thuốc kết hợp với chế độ dinh dưỡng và tập luyện thể lực. Ở các bài sau, chúng tôi sẽ nói rõ thêm về nguyên nhân, các biến chứng và cách để giúp bạn thoát khỏi cái mác “béo phì”.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/18/nhu-the-nao-la-beo-phi/feed/ 0
Máu nhiễm mỡ: căn bệnh không chỉ có ở người béo phì https://meyeucon.org/suckhoe/2011/07/19/mau-nhiem-mo-can-benh-khong-chi-co-o-nguoi-beo-phi/ https://meyeucon.org/suckhoe/2011/07/19/mau-nhiem-mo-can-benh-khong-chi-co-o-nguoi-beo-phi/#respond Tue, 19 Jul 2011 01:40:01 +0000 http://hanhphucgiadinh.vn/?p=2439 Vì gầy như que củi nên chị Như (27 tuổi, Hà Nội) không bao giờ nghĩ mình mắc các bệnh do thừa mỡ như người béo phì. Gần đây đi khám sức khỏe định kỳ, chị rất bất ngờ khi bác sĩ thông báo chị bị mỡ trong máu cao.

Cao 1m63, nặng 45 kg, chị Như thuộc dạng mình hạc xương mai. Lúc nào chị cũng nghĩ người gầy cũng có lợi thế của nó là không lo sợ mắc mấy bệnh do béo phì kiểu như gan nhiễm mỡ, tiểu đường, tăng huyết áp… Thế nên khi biết bệnh, chị không tin, tưởng bác sĩ trả nhầm kết quả.

“Người mình gầy đét, có chỗ mỡ thừa nào đâu mà có mỡ trong máu. Nhưng nghĩ lại trước đây đã có lần mình thấy hoa mắt, chóng mặt, bác sĩ bảo có thể do mỡ trong máu cao dẫn đến tăng huyết áp. Lúc đó mình chỉ nghĩ đơn giản làm việc nhiều nên mệt thôi”, chị Như nói.

Cũng giống như chị Như, rất nhiều người Việt Nam vẫn cho rằng người gầy thì không bao giờ bị mỡ máu cao. Đây là một quan niệm sai lầm. Gầy và mỡ trong máu là hai thông số độc lập với nhau, bác sĩ Ngô Chí Hiếu, Trưởng khoa Hồi sức, Bệnh viện Tim Hà Nội cho biết.

“Đúng là trong số những người bị béo phì thì tỷ lệ bị máu nhiễm mỡ cao hơn rất nhiều. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người gầy không mắc bệnh này”, bác sĩ Hiếu nói.

Không phải cứ người béo mới bị mỡ máu cao.

Theo bác sĩ, máu nhiễm mỡ là từ mà nhiều người dân hay dùng, y học gọi là rối loạn lipid máu hay mỡ máu cao. Bình thường trong máu có một tỷ lệ mỡ nhất định, được đánh giá bằng chỉ số xét nghiệm cholesterol, triglycerid… Nếu các chỉ số này cao hơn mức cho phép thì gọi là mỡ máu cao. Trong đó, cholesterol cao là chỉ số đặc trưng của bệnh.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh: di truyền, yếu tố gia đình, chế độ ăn, sinh hoạt không hợp lý, như ăn quá nhiều thịt chó, phủ tạng động vật, tiết canh, hải sản…, uống nhiều rượu bia, dẫn đến rối loạn chuyển hóa mỡ.

Biểu hiện bệnh ở người trẻ thường thầm kín, hầu như không có triệu chứng. Nhiều người chỉ vô tình phát hiện ra bệnh khi khám sức khỏe định kỳ hoặc thấy huyết áp cao, đau đầu thì đi làm thêm xét nghiệm máu thì đã thấy bị mỡ máu cao. Ở người già thì biểu hiện rõ ràng hơn, có đến 90% là tăng huyết áp, đái tháo đường đi kèm với tăng mỡ máu, bác sĩ Hiếu cho biết.

Bệnh nguy hiểm ở chỗ nếu không điều trị về lâu dài sẽ có thể dẫn đến nhiều biến chứng như: xơ, dày thành mạch máu, làm tăng huyết áp, tắc mạch máu đặc biệt mạch máu ở não và mạch vành, gây tai biến biến, suy tim về sau.

“Phần nhiều bệnh nhân phát hiện ra bệnh khi đã có biến chứng. Có trường hợp hoàn toàn không có triệu chứng gì, nhưng khi vào viện thì đã liệt nửa người, tai biến, nhập viện trong tình trạng cấp cứu”, bác sĩ Hiếu nói.

Trong khi đó, cũng theo bác sĩ, nếu phát hiện sớm, có người chỉ cần chỉnh chế độ ăn, là tỷ lệ mỡ trong máu gần như trở lại bình thường. Trường hợp không đáp ứng được thì dùng thuốc điều chỉnh. Đây là cả một quá trình lâu dài, vì còn tùy thuộc vào độ nhạy của thuốc, kiêng khem của từng người và không có một liều nhất định.

Người mắc bệnh cần có chế độ ăn uống và tập thể dục hợp lý, giảm ăn mỡ, phủ tạng động vật, đồ chiên rán, hạn chế rượu bia, uống nhiều nước.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2011/07/19/mau-nhiem-mo-can-benh-khong-chi-co-o-nguoi-beo-phi/feed/ 0