Sức khỏe & Y tế https://meyeucon.org/suckhoe Just another net.meyeucon.org site Wed, 30 Nov 2016 16:16:39 +0700 en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.1.1 Bệnh nhân lao phổi cần biết https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/09/benh-nhan-lao-phoi-can-biet/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/09/benh-nhan-lao-phoi-can-biet/#respond Sun, 09 Dec 2012 01:30:28 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=9188 Hiện nay, bệnh lao là một trong những bệnh hàng đầu gây tử vong và có tỷ lệ hiện mắc cao, nhất là ở các nước đang phát triển. Ngày nay, bệnh lao có thể điều trị khỏi bằng hóa trị liệu ngắn ngày, bên cạnh đó, bệnh nhân bị lao cần có một chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt hợp lý để có kết quả điều trị tốt hơn.

Về dinh dưỡng

Tăng lượng protein trong bữa ăn hàng ngày, từ 1,5-2g/kg/ngày nhất là giai đoạn bệnh lao đang tiến triển có sốt. Tỷ lệ protein động vật / protein thực vật khoảng 50-65%. Thịt lợn, gà, bò, cá, trứng, sữa, cua, tôm, lươn, nhộng…. là những thức ăn giàu protein.

Tăng cường năng lượng cho cơ thể. Nhu cầu năng lượng của bệnh nhân lao tăng từ 15-20%, nghĩa là khoảng 40 – 50 cal/kg/ngày, nhưng không vượt quá 2800 cal/ngày. Bệnh nhân lao cũng cần tránh dung nhiều năng lượng kéo dài vì có nguy cơ béo phì và gan thoái hóa mỡ. Năng lượng phần lớn được cung cấp bởi glucid, còn lipid nên cung cấp vừa đủ để phổi nghỉ ngơi và tránh gan nhiễm mỡ.

Vitamin và các khoáng chất:  cần cung cấp đầy đủ các vitamin A, D, E, C; các khoáng chất như Ca, kẽm… Các yếu tố này sẽ giúp tái tạo tổ chức, bảo vệ niêm mạc, tăng cường  miễn dịch và chống oxy hóa.

Không được sử dụng rượu, bia, thuốc lá trong quá trình điều trị.

Chế độ làm việc và nghỉ ngơi

Ngày nay, điều trị bệnh lao không cần nghỉ ngơi nhiều như trước đây mà có thể hoạt động một cách đúng mức ngay cả trong giai đoạn điều trị tấn công. Trong giai đoạn bệnh cấp tính hoặc bán cấp có sốt cao, khó thở, cơ thể suy nhược… bệnh nhân cần được nghỉ ngơi tại gường bệnh cho đến khi các triệu chứng trên thuyên giảm, AFB âm tính. Đối với bệnh nhẹ thì nghỉ ngơi, làm việc nhẹ nhàng trong khoảng 3 tháng là đủ, bệnh trung bình 6 tháng, bệnh nặng có thể lâu hơn.

Người bệnh bị lao phổi cần có khẩu trang hoặc ít nhất là có khăn che miệng khi tiếp xúc vơi người khác, khi hắt hơi, ho. Khạc đàm vào giấy hoặc ca cốc, bỏ đúng nơi quy định, rửa tay bằng xà phòng thường xuyên.

Hàng tuần hoặc hàng tháng bệnh nhân đến trạm y tế cơ sở hoặc các trung tâm y tế để được cấp, phát thuốc miễn phí. Bệnh nhân cần uống thuốc đều đặn, đầy đủ và dúng giờ theo hướng dẫn của các bác sỹ.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/09/benh-nhan-lao-phoi-can-biet/feed/ 0
Chữa bệnh lao phổi https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/07/chua-benh-lao-phoi/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/07/chua-benh-lao-phoi/#respond Fri, 07 Dec 2012 03:30:43 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=9179 Lao là bệnh xã hội quan trọng, có khá nhiều người mắc bệnh  và có nhiều yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới bệnh. Hiện nay, điều trị lao chủ yếu là điều trị nội khoa bằng cách sử dụng các thuốc kháng lao phối hợp, các chỉ định ngoại khoa chỉ áp dụng trong một số trường hợp đặc biệt.

Mục tiêu của điều trị lao

Đối với bệnh nhân: điều trị giúp bệnh nhân khỏi bệnh, tránh tử vong, trả lại sức khỏe và lao động cho gia đình và xã hội.

Đối với cộng đồng: điều trị lao sẽ dập tắt nguồn lây cho cộng đồng, làm giảm số nguồn lây lao lưu hành sẽ giảm nhanh, số người chết vì lao, số người bị nhiễm vi khuẩn lao mới sẽ giảm nhanh, số người mắc lao mới hàng năm sẽ giảm , dần dần tiến tới việc khống chế và thanh toán bệnh lao cho toàn xã hội.

Điều trị lao là biện pháp chống lao chính của chương trình chống lao quốc gia.

Phân loại thuốc kháng lao

Các thuốc kháng lao thiết yếu: Streptomycin; Isoniazid; Pyrazinamid; Ethambutol; Rifampicin.

Các thuốc kháng lao thứ yếu: Kanamycin; Viomycin; Cycloserin; Capreomycin, PAS,… Được dung trong phác đồ lao kháng thuốc.

Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị lao 

– Phối hợp từ 3 loại thuốc kháng lao có hiệu quả trở lên, tuyệt đối không đơn trị để tránh vi khuẩn  kháng thuốc chọn lọc.

– Hóa trị liệu lao cần tuân theo nguyên tắc điều trị lao “đúng đủ và đều”

– Điều trị qua hai giai đoạn tấn công và duy trì.

– Thời gian điều trị phải kéo dài, đều đặn, thường xuyên và liên tục. Tuyệt đối không bỏ trị giữa chừng.

– Dùng thuốc lao phải đúng cách: thuốc lao phải được chích và uống thuốc cùng một lúc trong ngày để đạt nồng độ thuốc cao nhất và phải uống lúc đói bụng để được hấp thụ tối đa.

– Điều trị lao với phác đồ hóa ngắn ngày phải được kiểm soát trực tiếp theo chiến lược DOTS.

Một số lưu ý khi sử dụng thuốc kháng lao cho những bệnh nhân đặc biệt

Bệnh nhân lớn tuổi: có nhiều thay đổi về chuyển hóa và bài tiết thuốc.

Bệnh nhân bị suy dinh dưỡng: gan nhiễm mỡ làm giảm Glutathione tế bào gan, dẫn đến giảm trung hòa các chất chuyển hóa gây độc có nguồn gốc acetyl hóa thuốc, giảm albumin máu làm gia tăng thành phần thuốc tự do.

Phụ nữ có thai: thuốc kháng lao có thể làm gan nhiễm mỡ, giảm albumin máu, tai biến trên thai…

Những bệnh nhân có rối loạn chức  năng gan thận: thuốc kháng lao dễ gây độc cho gan và thận.

Bệnh nhân có điều trị lao trước đó: có thể gây phản ứng quá mẫn, tai biến có thể trở lại.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/07/chua-benh-lao-phoi/feed/ 0
Lao phổi là gì, những nguyên nhân, triệu chứng của bệnh lao phổi https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/03/lao-phoi-la-gi-nhung-nguyen-nhan-trieu-chung-cua-benh-lao-phoi/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/03/lao-phoi-la-gi-nhung-nguyen-nhan-trieu-chung-cua-benh-lao-phoi/#respond Mon, 03 Dec 2012 02:30:49 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=9148 Lao phổi là thể lao gặp phổ biến nhất ở người lớn, chiếm 80% tổng số bệnh lao và bao gồm tất cả các thể lao phổi ngoại trừ lao sơ nhiễm và lao phổi cấp tính. Đây là nguồn lây truyền phổ biến làm cho bệnh lao phổi tồn tại và phát triển.

Ho và khạc đàm gặp trong 90% bệnh nhân lao phổi

Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh gây nên chủ yếu do vi khuẩn lao người Mycobacterium Tuberculosis Homminis, có thể do vi khuẩn lao bò (Mycobacterium Bovis) nhưng ít gặp ở nước ta. Vi khuẩn lao là một vi khuẩn hiếu khí, sinh sản chậm, có khả năng kháng thuốc. Vi khuẩn lao có có thể tồn tại lâu (3 -4 tháng) ở môi trường bên ngoài và có nhiều quần thể chuyển hóa khác nhau ở tổn thương (nhóm vi khuẩn  phát triển nhanh, ngoài tế bào; nhóm vi khuẩn  phát triển chậm, từng đợt; nhóm vi khuẩn  nằm trong tế bào và nhóm vi khuẩn  ngủ).

Người khoẻ mạnh bị truyền vi khuẩn lao phổi qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp và lâu dài với bệnh nhân lao phổi đặc biệt là lao phổi có vi khuẩn  lao trong đàm bằng phương pháp nhuộm  soi trực tiếp.

Các triệu chứng thường gặp của bệnh lao phổi

Thời kỳ khởi phát

Khoảng 60 -75% bệnh xuất hiện từ từ, tiến triển kéo dài, thường có nhiều triệu chứng phối hợp và tăng dần. Bệnh nhân thường sốt nhẹ, sốt kéo dài 2-3 tuần không dao động, sốt rõ về chiều hoặc tối kèm theo mệt mỏi; chán ăn; sút cân; ra mồ hôi trộm; da xanh xao, nhợt nhạt. Ho và khạc đàm gặp trong 90% bệnh nhân; ho ra máu; đau ngực.

Bệnh khởi phát cấp tính ( khoảng 10-20% các trường hợp). Bệnh xảy ra đột ngột với các triệu chứng lâm sàng rầm rộ, tiến triển nhanh với sốt cao, ho, tức ngực nhiều kèm khó thở, thường gặp trong thể viêm phổi bã đậu hay phế quản phế viêm.

Thời kỳ toàn phát

Các triệu chứng của thời kỳ khởi phát nặng dần lên và khởi phát từng đợt, có thời gian giảm sau đó trở lại với mức độ nặng hơn. Bệnh nhân suy kiệt, da xanh xao, niêm mạc nhợt, sốt dai dẵng về chiều tối, mệt mỏi, chán ăn, sút cân… Ho có thể càng ngày càng tăng, có thể ho ra máu, đau ngực liên tục, khó thở tăng ngay cả khi nghỉ ngơi.

Trước đây, khi chưa có các kháng sinh và thuốc điều trị chống lao hiệu quả thì lao phổi vẫn được xếp vào tứ chứng nan y. Nhưng từ  năm 1944 khi kháng sinh Streptomycin và một số hóa dược như Pyrazinamid, Ethambutol, Rifampicin ra đời, căn bệnh này không còn quá đáng sợ.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/12/03/lao-phoi-la-gi-nhung-nguyen-nhan-trieu-chung-cua-benh-lao-phoi/feed/ 0
Sử dụng vitamin B6 đúng cách https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/21/su-dung-vitamin-b6-dung-cach/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/21/su-dung-vitamin-b6-dung-cach/#respond Fri, 21 Sep 2012 03:00:09 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8573 Vitamin B6 (còn có tên là pyridoxine) đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa protein, glucid và lipid. Vitamin B6 cũng tham gia tổng hợp acid gamma – aminobutyric (GABA) trong hệ thần kinh trung ương và tham gia tổng hợp hemoglobulin.

Hàng ngày, trẻ em cần 0,3 – 2 mg vitamin B6, người lớn khoảng 1,6 – 2mg và người mang thai hoặc cho con bú là 2,1 – 2,2mg. Rất hiếm gặp tình trạng thiếu hụt vitamin B6 , nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở những người bị rối loạn hấp thu, rối loạn chuyển hóa bẩm sinh hoặc rối loạn do sử dụng thuốc…

Vitamin B6 đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa protein, glucid và lipid.

Với người bệnh đang điều trị lao, sử dụng isoniazid (H) hoặc phụ nữ dùng thuốc tránh thai (vitamin B6 có thể làm nhẹ bớt trầm cảm ở phụ nữ uống thuốc tránh thai, và thuốc tránh thai uống có thể làm tăng nhu cầu về pyridoxin), nhu cầu vitamin B6 hàng ngày sẽ nhiều hơn bình thường.

Khi cơ thể bị thiếu hụt vitamin B6 (pyridoxin) có thể dẫn đến thiếu máu do thiếu sắt, viêm dây thần kinh ngoại biên, viêm da tăng tiết bã nhờn và khô nứt môi… Do đó, trong trường hợp như do dinh dưỡng không cung cấp đủ, nhu cầu cơ thể tăng (phụ nữ mang thai, cho con bú…), do bệnh tật ( như nghiện rượu, bỏng, suy tim sung huyết, sốt kéo dài, cắt bỏ dạ dày, lọc máu, cường tuyến giáp, nhiễm khuẩn, bệnh đường ruột như tiêu chảy, viêm ruột, kém hấp thu liên quan đến bệnh về gan – mật…) rất cần bổ sung vitamin B6.

Trong đa số các trường hợp hiếm gặp thiếu đơn độc một vitamin nhóm B mà thường thiếu nhiều loại vitamin, do đó, cần bổ sung vitamin dưới dạng hỗn hợp có hiệu quả hơn dùng đơn lẻ. Cách tốt nhất vẫn là cải thiện chế độ ăn. Một số thầy thuốc vẫn khuyên dùng thêm hỗn hợp các vitamin và muối khoáng, nhất là với người mang thai ăn uống kém hoặc có nguy cơ thiếu hụt cao (mang đa thai, nghiện hút thuốc lá, rượu, ma túy). Nhưng nếu sử dụng lượng vitamin B quá thừa hỗn hợp các vitamin và muối khoáng có thể gây hại cho mẹ và thai nhi, cần phải tránh.

Ngoài ra, vitamin B6 cũng được sử dụng để điều trị biến chứng khi dùng thuốc chống lao isoniazid. Ở một số trẻ sơ sinh có biểu hiện hội chứng lệ thuộc vitamin B6 (có tính di truyền) với các triệu chứng như quấy khóc nhiều và có cơn run giật kiểu động kinh, nên dùng vitamin B6 trong tuần đầu sau đẻ để phòng thiếu máu và chậm phát triển ở trẻ. Liều lượng và đường dùng tuỳ từng trường hợp cụ thể thầy thuốc sẽ có những chỉ định phù hợp.

Nhưng, khi phải dùng thuốc với liều 200mg/ngày, trong thời gian dài (từ 1 – 2 tháng trở lên) nên lưu ý với tác dụng phụ lên hệ thần kinh của thuốc như bệnh thần kinh ngoại biên nặng (với dấu hiệu tiến triển từ dáng đi không vững và tê cóng bàn chân đến tê cóng và vụng về bàn tay. Tình trạng này có thể biến mất  khi ngưng thuốc, nhưng vẫn còn để lại ít nhiều di chứng), và bệnh thần kinh cảm giác nặng, có khi gây hội chứng lệ thuộc vào vitamin B6. Đối với phụ nữ mang thai, liều bổ sung theo nhu cầu hàng ngày không gây hại cho thai nhi, nhưng khi sử dụng với liều cao có thể gây hội chứng lệ thuộc vitamin B6 ở trẻ sơ sinh.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/09/21/su-dung-vitamin-b6-dung-cach/feed/ 0
Mẹ nhiễm giun làm con dễ mắc lao https://meyeucon.org/suckhoe/2011/08/25/me-nhiem-giun-lam-con-de-mac-lao/ https://meyeucon.org/suckhoe/2011/08/25/me-nhiem-giun-lam-con-de-mac-lao/#respond Thu, 25 Aug 2011 03:39:41 +0000 http://hanhphucgiadinh.vn/?p=3488 Theo kết quả nghiên cứu vừa được các bác sĩ Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP HCM công bố thì: Nếu mẹ nhiễm giun lươn, giun móc thì khi sinh con, làm giảm sức đề kháng của vaccine ngừa lao. Ngoài ra, sản phụ nhiễm giun sán còn có nguy cơ gây sảy thai, con dị tật.

Giun là “thủ phạm” gây giảm hiệu quả vaccine ngừa lao.

Nhiều trẻ không đáp ứng với vaccine BCG

TS.BS Mai Nguyệt Thu Hồng, Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch TPHCM cho biết, nghiên cứu khảo sát trong 2 năm trên 323 cặp thai phụ và trẻ sau khi sinh được 6 tháng tuổi thì có đến 41% thai phụ nhiễm giun đũa chó mèo, 18% nhiễm giun móc và tỷ lệ nhiễm giun lươn là 8%.

Trong đó, giun móc và giun lươn là hai “thủ phạm” chính, gây giảm hiệu quả của vaccine BCG – ngừa lao trên trẻ. Cụ thể, ở nhóm trẻ có mẹ nhiễm giun lươn, tỷ lệ không đáp ứng với vaccine là 11%.

Tương tự, ở nhóm trẻ có mẹ bị nhiễm giun móc, tỷ lệ không đáp ứng với vaccine là 24%. Đây có thể là một trong những nguyên nhân gián tiếp khiến trẻ mắc các thể lao cấp tính, lao nặng, dẫn đến tử vong. Theo BS. Thu Hồng, đây là vấn đề đáng quan tâm, bởi Việt Nam là một trong những nước có số người mắc lao khá cao, với tỷ lệ 192/100.000 dân và Việt Nam cũng là vùng dịch tễ nhiễm ký sinh trùng rất cao, từ 30% – 60%.

BS. Thu Hồng còn cho biết, những trẻ suy giảm miễn dịch hoặc không đáp ứng với vaccine BCG dễ bị các thể lao cấp tính, lao nặng như: Lao màng não, lao kê. Nếu không phát hiện và điều trị kịp, trẻ dễ bị di chứng bại não, liệt chi, động kinh.

Thậm chí, khi phát hiện sớm, trẻ vẫn có thể tử vong do mắc lao cấp tính, lao nặng. Nếu không mắc lúc nhỏ, đến khi trưởng thành, cũng có thể mắc lao phổi. Một nghiên cứu khác mới đây của Viện Pasteur TP HCM trên 261 trẻ từ 12-15 tuổi cho thấy, gần 48% trẻ không đáp ứng với vaccine BCG.

Do hiệu quả của vaccine phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Chủng vi khuẩn lao dùng để sản xuất vaccine, độc lực của chủng vi khuẩn lao gây bệnh, yếu tố di truyền của cá thể nhiễm vi khuẩn lao, phơi nhiễm với các dòng vi khuẩn lao không điển hình khác.

Ngoài ra, hiệu quả của vaccine BCG rất khác nhau, tùy từng vùng mà hiệu quả thay đổi từ 30% – 90%. Do đó, các nhà khoa học đang cố gắng phát triển vaccine ngừa lao mới hữu hiệu hơn, hy vọng sẽ đưa vào sử dụng trong thời gian tới“- BS. Thu Hồng cho hay.

Nguy cơ dị tật và sảy thai cao

Đề phòng ngừa giun, các bác sĩ khuyến cáo nên rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, rửa rau sống kỹ trước khi ăn, không ăn thịt heo, thịt bò nấu chưa chín, không đi chân đất…, đặc biệt với những phụ nữ chưa sinh con hoặc đang có ý định sinh con bởi ngoài việc giảm hiệu quả của vaccine, mẹ nhiễm giun sán có thể bị sảy thai, con bị dị tật.

Theo BS. Thu Hồng, với những trẻ chưa có phản ứng với vaccine BCG có thể chích lại lần hai. Nếu vẫn không phản ứng với vaccine, cần cách ly trẻ với bệnh nhân lao, đồng thời phải thường xuyên giữ vệ sinh môi trường xung quanh để hạn chế sự phát tán của vi trùng lao. Tuy nhiên, biện pháp này phải chờ ý kiến của Bộ Y tế.

TS.BS Trần Phủ Mạnh Siêu, Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng TP HCM cảnh báo, nếu nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii – ký sinh trong dạ dày của mèo, thai phụ có nguy cơ sảy thai trong ba tháng đầu thai kỳ, thậm chí có thể sảy thai liên tục vào những lần mang thai sau đó. Ngoài ra, ký sinh trùng này còn tấn công vào não em bé qua nhau thai, gây tắc đường dẫn lưu các dịch não tủy, khiến trẻ bị não úng thủy.

BS. Mạnh Siêu cũng nhấn mạnh, khi có một trong các dấu hiệu như rối loạn thói quen đi cầu, đi cầu táo bón xen kẽ tiêu chảy, đi phân nát kéo dài nhiều tháng, nhiều năm; hoặc khi người bệnh cảm thấy bụng đau lâm râm quanh rốn, đau mơ hồ âm ỉ ở thượng vị… thì nên đến ngay các cơ sở y tế để điều trị giun sán trước khi có ý định mang thai. Cũng có khi, người bệnh bị sụt cân dù ăn uống đều đặn, ăn nhiều.

Ngoài ra, nếu người bệnh xanh xao, thiếu máu kéo dài mà không tìm được nguyên nhân, có khối sưng bất thường trên cơ thể mà uống thuốc kháng sinh, kháng viêm vẫn không hết cũng có thể nghi nhiễm giun sán. Khi chẩn đoán đúng bệnh do giun sán gây ra, tùy vào từng loại ký sinh trùng mà bác sĩ sử dụng những thuốc đặc trị khác nhau.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2011/08/25/me-nhiem-giun-lam-con-de-mac-lao/feed/ 0