Sức khỏe & Y tế https://meyeucon.org/suckhoe Just another net.meyeucon.org site Wed, 30 Nov 2016 16:16:39 +0700 en-US hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.1.1 Racecadotril – một loại thuốc mới để điều trị tiêu chảy https://meyeucon.org/suckhoe/2012/08/29/racecadotril-mot-loai-thuoc-moi-dieu-tri-tieu-chay/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/08/29/racecadotril-mot-loai-thuoc-moi-dieu-tri-tieu-chay/#respond Wed, 29 Aug 2012 08:30:16 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8330 Racecadotril – một loại thuốc mới, trên thực nghiệm và thực tế điều trị đều chứng minh được hiệu quả chống tiêu chảy nhanh và rất an toàn, đặc biệt đối với trẻ em.

Tiêu chảy là tình trạng đi tiêu nhiều lần (> 3 lần) trong ngày, với lượng phân và nước khá lớn. Trẻ em càng nhỏ tiêu chảy càng dễ nặng hơn, nhất là tiêu chảy cấp dễ dẫn đến mất nước nhanh gây nguy hiểm tới tính mạng. Bởi vậy, cần được điều trị nhanh chóng, đặc biệt là bù đủ nước và chất điện giải.

Điểm qua các thuốc điều trị

Ở các nước đang phát triển (trong đó có nước ta), mỗi năm, mỗi đứa trẻ mắc trung bình 5 – 12 đợt tiêu chảy, 25 – 30% trẻ nhập viện điều trị là do tiêu chảy. Tiêu chảy là sát thủ nghiêm trọng thứ hai ở trẻ dưới 5 tuổi, chỉ đứng sau nhiễm khuẩn cấp đường hô hấp. Người ta ước tính mỗi năm có khoảng 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới chết do tiêu chảy, trong số đó có 80% là trẻ dưới 2 tuổi.

Nguyên nhân gây tiêu chảy có nhiều: có thể do vi khuẩn, virut (hay gặp nhất là Rotavirus), ký sinh trùng, dị ứng, ngộ độc thức ăn. Các thuốc điều trị đề cập ở đây là điều trị triệu chứng, làm giảm sự co thắt ở ruột, sửa chữa sự rối loạn tiết dịch, bổ sung nước và chất điện giải…Trên cơ sở này có thể dùng nhóm thuốc là các chất hấp phụ (smecta, smectic, acticarbine, carbotrim…) có cấu trúc xốp và có độ nhớt cao, tương tác với glycoprotein của dịch nhầy, làm tăng sức chịu đựng của lớp gel dính trên niêm mạc ruột khi bị các vi khuẩn tấn công, do đó bảo vệ được niêm mạc ruột.

Cũng có thể dùng nhóm thuốc có tác dụng ổn định hệ vi khuẩn chí ở ruột (antibio, bioflor, enterogermina, lacteol…), với mục đích là chống loạn khuẩn, kích thích tăng sản xuất IgA, phục hồi khả năng hấp thu của niêm mạc ruột, lập lại sự cân bằng của hệ tạp khuẩn.

Tuy nhiên, đứng đầu trong các thuốc điều trị tiêu chảy phải kể đến là oresol và racecadotril – một thuốc mới có nhiều triển vọng.

Tiêu chảy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bạn.

Oresol là lựa chọn số một

Mắc bệnh và tử vong do tiêu chảy chủ yếu là do mất nước và điện giải. Trẻ em rất dễ mất nước, nếu giảm sút trên 10% thể trọng do tiêu chảy có thể tử vong sau vài giờ. Do vậy, khi trẻ bị tiêu chảy nhất là tiêu chảy cấp, đặc biệt đối với trẻ nhỏ vấn đề quan trọng là phải bù nước và điện giải đã mất do tiêu chảy. Cách đơn giản nhất mà Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo là dùng oresol bằng đường uống.

Từ khi có oresol đưa vào điều trị tiêu chảy đã cứu được rất nhiều trẻ em thoát chết. Năm 2008, WHO và UNICEF lại đưa ra khuyến cáo liệu trình mới điều trị tiêu chảy ở trẻ em dựa trên nền của liệu trình cũ có cải tiến và thu được kết quả cao hơn. Đó là dùng oresol có tỷ trọng thấp (so với oresol cũ) và một vài thuốc khác.
Hình ảnh ruột khi bị tiêu chảy.

Dung dịch oresol mới có nồng độ NaCl 2,6g/lít (so với cũ là 3,5g/lít), glucose 13,5g/lít (so với cũ 20g/lít), một số chất khác không thay đổi. Như vậy là dung dịch oresol mới có tỷ trọng thấp hơn hoặc có tổng độ thẩm thấu tốt hơn oresol cũ. Các nghiên cứu cho thấy nhóm trẻ dùng oresol mới làm giảm tới 33% số trẻ phải truyền dịch, làm giảm 20% số lượng phân bài tiết và làm giảm 30% số trẻ bị nôn so với nhóm trẻ dùng dung dịch oresol cũ (có tỷ trọng cao hơn).

Oresol (gồm các hỗn hợp trên) được đóng gói trong giấy nhôm hàn kín, mỗi gói dùng pha trong 1lít nước đun sôi để nguội, không được pha đặc hay loãng hơn. Dung dịch pha xong chỉ nên uống trong ngày, qua ngày hôm sau thừa phải đổ đi và pha gói mới.

Racecadotril – một thuốc mới

Tuy oresol có tính an toàn cao và dung nạp tốt, nhưng chỉ bù nước và chất điện giải một cách thụ động mà cơ thể đã bị mất chứ không tác động chủ động vào cơ chế sinh bệnh, chính là tình trạng tăng tiết quá mức ở ruột. Do vậy, dung dịch bù nước và điện giải bằng đường uống không ngăn được lượng dịch sẽ mất, không làm giảm lượng phân bài xuất và rút ngắn thời gian tiêu chảy. Trên cơ sở nhận thức đó, những năm gần đây, các nhà nghiên cứu lại tìm ra thuốc racecadotril (tên chung quốc tế). Cơ chế tác dụng của racecadotril trong chống tiêu chảy là chống tăng tiết (kháng tiết).

Người ta nhận thấy ở ruột có một chất chống xuất tiết tự nhiên làm giảm mất nước và điện giải được gọi là enkephalin. Tuy vậy, enkephalin lại không tồn tại lâu mà dễ bị một loại enzym làm mất hoạt tính (được gọi là enkephalinase) và làm mất tác dụng kháng tiết có lợi của enkephalin. Điều này dẫn đến nhu cầu tìm ra racecadotril một loại thuốc ức chế men gây hại nói trên, để enkephalin phát huy tác dụng có lợi chống mất nước và điện giải. Tuy vậy, sự ức chế này là có chọn lọc, có thể phục hồi và bảo vệ được enkephalinase nội sinh, không ảnh hưởng đến tiết dịch cơ bản, không tác dụng trên ruột bình thường.

Racecadotril trên thực nghiệm và thực tế điều trị đều chứng minh được hiệu quả chống tiêu chảy nhanh và rất an toàn, đặc biệt đối với trẻ em. Do tác động chống tăng tiết racecadotril làm giảm lượng phân bài xuất và rút ngắn thời gian tiêu chảy. Nó đặc biệt tốt cho trẻ em bởi đặc tính của thuốc không đi qua hàng rào máu não (không ảnh hưởng hệ thần kinh trung ương, không ức chế hô hấp), không làm giảm nhu động ruột (không gây trướng bụng chán ăn, không gây tăng sinh vi khuẩn ruột quá mức) và đặc biệt khá an toàn nếu dùng quá liều. Do vậy, racecadotril đã được nhiều hiệp hội nhi khoa thế giới khuyến cáo sử dụng rộng rãi từ năm 2003 và thực tế cho tới nay đã chứng tỏ tính ưu việt.

Như vậy, cách điều trị theo khuyến cáo mới thực sự là một kết hợp thú vị và khá hoàn chỉnh, bởi lẽ oresol thì bù lại lượng nước và điện giải bị mất, còn racecadotril thì ức chế sự tăng tiết nước và điện giải, làm giảm đi lượng nước và điện giải lẽ ra sẽ tiếp tục bị mất, do đó làm giảm lượng phân bài xuất, rút ngắn thời gian bị tiêu chảy.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/08/29/racecadotril-mot-loai-thuoc-moi-dieu-tri-tieu-chay/feed/ 0
Tiêu chảy vì… dùng thuốc kháng sinh https://meyeucon.org/suckhoe/2012/08/15/tieu-chay-vi-dung-thuoc-khang-sinh/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/08/15/tieu-chay-vi-dung-thuoc-khang-sinh/#respond Wed, 15 Aug 2012 08:30:32 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=8157 Tại sao kháng sinh lại gây tiêu chảy? Kháng sinh nào có thể gây tiêu chảy? Ai có nguy cơ bị tiêu chảy do dùng kháng sinh? Biểu hiện, hậu quả và cách điều trị như thế nào?

Tiêu chảy do dùng kháng sinh hay tiêu chảy có liên quan đến kháng sinh là tình trạng bệnh lý tiêu chảy xuất hiện sau khi dùng kháng sinh để điều trị một bệnh nhiễm khuẩn nào đó. Phần lớn các trường hợp tiêu chảy do dùng kháng sinh là ở mức độ nhẹ và có thể tự khỏi sau khi dừng loại kháng sinh gây ra tiêu chảy. Tuy nhiên, có một số trường hợp biểu hiện nặng với các thương tổn viêm nhiễm phù nề ở đại tràng hay còn được gọi là viêm đại tràng giả mạc

Tại sao kháng sinh lại gây tiêu chảy?

Trong hệ tiêu hóa, tồn tại một quần thể vi khuẩn bao gồm hàng trăm chủng khác nhau. Trong các chủng vi khuẩn này, có nhiều chủng cộng sinh có lợi cho cơ thể (còn được gọi là vi khuẩn chí). Ngoài ra, cũng có rất nhiều chủng vi khuẩn gây bệnh tồn tại trong ruột sẽ gây bệnh khi có cơ hội. Trong quá trình song song tồn tại, nhóm vi khuẩn chí, nếu phát triển mạnh và đầy đủ sẽ kiềm chế không cho nhóm vi khuẩn có hại gây bệnh.

Khi dùng kháng sinh kéo dài, một số chủng vi khuẩn có lợi sẽ bị ảnh hưởng. Các vi khuẩn có hại lại ít bị ảnh hưởng hơn do nhiều chủng trong số chúng có khả năng kháng kháng sinh rất mạnh. Kết quả là cân bằng giữa hai nhóm vi khuẩn bị phá vỡ, nhóm vi khuẩn có hại phát triển tràn lan trong đường tiêu hóa, tiết ra độc tố gây tổn thương niêm mạc ruột, kích hoạt quá trình viêm nhiễm, phù nề, xuất tiết, xuất huyết trong lòng ruột và hội chứng tiêu chảy sau dùng kháng sinh bùng phát.

Có rất nhiều chủng vi khuẩn có thể gây hội chứng tiêu chảy sau dùng kháng sinh nhưng một loại vi khuẩn kị khí là clostridium difficile là thủ phạm quan trọng nhất gây nên phần lớn các trường hợp viêm đại tràng giả mạc rất nặng nề trên lâm sàng. Viêm đại tràng giả mạc do C. difficile đặc biệt hay gặp ở những bệnh nhân trong các khoa hồi sức tích cực, nơi có nhiều chủng vi khuẩn kháng kháng sinh và lượng kháng sinh được dùng với liều lượng cao và kéo dài.

Hãy lưu ý khi sử dụng thuốc kháng sinh.

Kháng sinh nào có thể gây tiêu chảy?

Các nhóm kháng sinh thường gây tiêu chảy đơn thuần hoặc hội chứng viêm đại tràng giả mạc là nhóm cepalosporins (điển hình là cefixime, cefpodoxime), clindamycin, erythromycin, penicillins, ampicillin, amoxicillin, nhóm quinolones (ciprofloxacin, levofloxacin), tetracyclines (doxycycline, minocycline)….

Ai có nguy cơ bị tiêu chảy do dùng kháng sinh?

Tiêu chảy do dùng kháng sinh có thể xảy ra ở tất cả các đối tượng được dùng kháng sinh kéo dài nhưng có một số yếu tố nguy cơ làm cho hội chứng này dễ dàng xảy ra hơn. Các yếu tố nguy cơ cao bao gồm: tiền sử đã bị tiêu chảy sau dùng kháng sinh; tuổi trên 65; đã phẫu thuật cắt dạ dày, ruột; mới được điều trị tại bệnh viện; có các bệnh đường ruột như bệnh viêm đường ruột mạn, ung thư đại tràng; bệnh nhân suy giảm miễn dịch tự nhiên hay mắc phải.

Biểu hiện như thế nào?

Tiêu chảy do dùng kháng sinh biểu hiện ở nhiều mức độ từ nhẹ đến nặng. Sau khi dùng kháng sinh khoảng 10 ngày, bắt đầu xuất hiện các triệu chứng như sôi bụng, đau bụng, bụng chướng nhẹ, tiêu chảy nhiều lần, phân lỏng. Bệnh có thể diễn tiến nặng hơn khi có các triệu chứng như sốt cao, đau bụng nhiều, phân có máu hoặc nhầy mủ, tiêu chảy liên tục, buồn nôn, nôn mửa.

Hậu quả

Ngoại trừ những trường hợp nhẹ, tiêu chảy sau dùng kháng sinh nếu kéo dài sẽ gây nhiều hậu quả cho bệnh nhân như mất nước nặng, rối loạn điện giải (hạ kali máu), rối loạn thăng bằng kiềm toan. Một số trường hợp gây viêm loét, thủng ruột. Tiêu chảy kéo dài cũng có thể là nguyên nhân của hội chứng phình đại tràng nhiễm độc (toxic megacolon) nguyên nhân do liệt, dãn to đại tràng kèm theo viêm nhiễm, ứ đọng các chất độc trong đại tràng, thẩm lậu qua thành ruột vào máu gây nhiễm trùng nhiễm độc toàn cơ thể, đau bụng, sốt, thủng vỡ đại tràng.

Ðiều trị tiêu chảy do dùng kháng sinh

Điều trị tiêu chảy do dùng kháng sinh trước hết phải dừng ngay loại kháng sinh có liên quan đến tiêu chảy. Bù đủ nước, điện giải, thăng bằng kiềm toan là việc phải được tiến hành ngay. Cấy phân, cấy máu để xác định chủng vi khuẩn gây bệnh. Nếu có viêm đại tràng giả mạc, kháng sinh được lựa chọn là methronidazole hoặc vancomycin. Ăn các loại thực phẩm mềm, dễ tiêu. Trong giai đoạn này nên tránh ăn nhiều chất xơ và các chất lên men mạnh cũng như các gia vị gây kích thích đường tiêu hóa như ớt, hạt tiêu…. Sau khi khỏi bệnh, nên tránh dùng loại kháng sinh đã gây tiêu chảy trước đó. Khi dùng bất cứ một loại kháng sinh nào khác, nên cân nhắc kỹ theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/08/15/tieu-chay-vi-dung-thuoc-khang-sinh/feed/ 0
Măng cụt – quả ngon, vị thuốc quý https://meyeucon.org/suckhoe/2012/06/15/mang-cut-qua-ngon-vi-thuoc-quy/ https://meyeucon.org/suckhoe/2012/06/15/mang-cut-qua-ngon-vi-thuoc-quy/#comments Fri, 15 Jun 2012 03:00:52 +0000 http://net.meyeucon.org/suckhoe/?p=7976 Măng cụt có tên khoa học là Garcinia mangostana L. Quả hình cầu, to bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ sẫm, dày cứng, phía dưới có lá đài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả trung bình có 6 hạt, quanh hạt có áo hạt ăn được.

Măng cụt có rất nhiều lợi ích đối với sức khỏe.

Cứ đến mùa hè là người ta lại ngóng đến mùa măng cụt. Những quả măng cụt chín màu tím thẫm, bên trong là từng múi trắng như sữa, có vị ngọt nhẹ rất dễ ăn. Hơn thế, măng cụt còn rất có lợi cho sức khỏe.

Dưới đây là một số công dụng phổ biến của quả măng cụt:

Giữ cân bằng trong dạ dày:

Một trong những hậu quả của sự lão hóa là suy giảm tính axit trong dạ dày, dẫn đến tăng vi trùng trong dạ dày, gây ra chứng tiêu chảy, đau quặn bụng, ợ hơi và cơ thể không thể hấp thụ đủ chất dinh dưỡng. Kháng thể Xathones trong trái măng cụt có thể tiêu diệt sự sinh sôi quá mức của vi khuẩn trong dạ dày, giúp cải thiện và tái lập sự cân bằng trong dạ dày.

Giảm mùi hôi của hơi thở:

Kháng thể Xanthones trong quả măng cụt cũng có khả năng diệt khuẩn. Do đó, khi ăn hoặc súc miệng bằng nước măng cụt sẽ làm giảm mùi hôi trong miệng.

Giúp tinh thần phấn chấn:

Trong quả măng cụt còn có axit Trytophan – chất có liên hệ trực tiếp với Serotonin (một chất dẫn truyền thần kinh có liên hệ mật thiết với giấc ngủ, tâm trạng vui buồn và khẩu vị) tạo ra sự phấn chấn trong tinh thần.

Giảm cholesterol:

Khi cholesterol xấu bị lão hóa sẽ sinh ra những mảng bám trong mạch máu. Các công trình nghiên cứu cho thấy kháng thể Xanthones trong măng cụt có thể làm giảm ảnh hưởng của cholesterol xấu và ngăn ngừa sự hình thành các mảng bám nguy hiểm.

Chống viêm:

Chứng viêm kinh niên có thể đưa đến bệnh tiểu đường loại II, ung thư, thấp khớp, đãng trí, bệnh tim mạch và các căn bệnh chết người. Kháng thể Xanthones trong măng cụt chống lại chứng viêm một cách tự nhiên ở các tế bào.

Giảm cân:

Các kháng thể Xanthones trong măng cụt khiến các tế bào trở nên mềm hơn, có thể thấm nước và có khả năng chuyển hóa thức ăn thành năng lượng. Điều này khiến chúng ta cảm thấy thoải mái hơn đồng thời cũng không phải lo chuyện tăng cân.

Chữa các bệnh ngoài da:

Dùng nước măng cụt bôi ngay lên trên vùng da có vấn đề như bị mụn, eczema, ngứa… thì sẽ thấy các bệnh này tự nhiên biến mất mà không có phản ứng phụ.

Một số bài thuốc từ quả măng cụt:

Trị tiêu chảy:

Dùng vỏ măng cụt khô 24gr, hạt thì là (có nơi gọi hạt bồng sàn) mỗi thứ 2gr. Đem tất cả nấu lấy nước, uống 2 lần trong ngày.

Chữa lỵ:

Dùng vỏ quả măng cụt 6gr, rau sam, rau má, cỏ nhọ nồi, cỏ sữa (mỗi thứ 8gr), trà xanh (loại ngon) 6gr, cam thảo, vỏ quýt (mỗi thứ 4gr), gừng 3 lát. Đem tất cả nấu lấy nước để uống trong ngày.

Cũng chữa lỵ, có thể dùng cách khác:

Vỏ quả măng cụt nướng thơm 8gr, rau má 10gr; rau dền tía, khổ sâm, gương sen, củ rối sao đen, vỏ lựu (mỗi vị 8gr); hạt cau già 6gr; cam thảo, vỏ quýt nướng (mỗi vị 4gr). Tất cả đem nấu lấy nước uống trong ngày.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2012/06/15/mang-cut-qua-ngon-vi-thuoc-quy/feed/ 1
Ăn dứa giúp phòng bệnh tiêu chảy https://meyeucon.org/suckhoe/2011/05/28/an-dua-giup-phong-benh-tieu-chay/ https://meyeucon.org/suckhoe/2011/05/28/an-dua-giup-phong-benh-tieu-chay/#respond Sat, 28 May 2011 15:20:51 +0000 http://hanhphucgiadinh.vn/?p=1567 Dứa là loại hoa quả miền nhiệt đới không những ngon, bổ dưỡng mà lại không nóng. Ít người biết rằng dứa ngọt rất tốt cho dạ dày đồng thời có thẻ giúp ngừa bệnh tiêu chảy.

Để chọn một loại trái cây vừa ngon, vừa bổ lại không nóng chắc hẳn không có nhiều người nghĩ tới quả dứa. Thực tế dứa lại là loại quả đảm bảo đầy đủ những ưu điểm đó. Trong dứa có nhiều chất dinh dưỡng và vitamin như vitamin B1, vitamin B2, vitamin C, vitamin E, chất xơ, protein giúp giải rượu, đường canxi, natri, sắt và v.v…

Dứa rất tốt cho sức khỏe của bạn

Theo phân tích, 100 gam dứa có chứa 9,3 gam carbohydrate, 0,4 gam protein, 0,3 gam chất béo, 0,4 gam chất xơ, 18 mg canxi, 28 mg photpho, 0,5 mg sắt, 0,08 mg caroten, 24 mg vitamin C, 0,02 mg vitamin B2, 0.08 mg vitamin B1, 0,2 mg niacin.

Tác dụng của dứa đối với sức khỏe

– Dứa có chứa enzym gọi là “enzyme protein dứa” – những chất có thể phá vỡ các protein, làm tan các cục máu đông, cải thiện lưu thông máu trong cơ thể, loại bỏ tình trạng viêm và phù nề.

– Lượng muối, đường và các enzym trong dứa có tác dụng lợi tiểu, lọc thận và rất có lợi cho những bệnh nhân bị cao huyết áp.

– Dứa ngọt rất tốt cho dạ dày và hệ tiêu hóa và có tác dụng ngăn chặn bệnh tiêu chảy.

Những ai nên ăn nhiều dứa?

– Dứa đặc biệt thích hợp cho những người khó chịu và có biểu hiện sốt, viêm thận, cao huyết áp, viêm phế quản, khó tiêu sau ăn.

–  Bệnh nhân bị loét bên ngoài cơ thể hoặc trong nội tạng, bệnh nhân bị thận, bệnh nhân bị đông máu nên ăn dứa. Nhưng những bệnh nhân bị chàm, ngứa ghẻ thì không nên ăn dứa.

]]>
https://meyeucon.org/suckhoe/2011/05/28/an-dua-giup-phong-benh-tieu-chay/feed/ 0