Ngày nay, ước tính có khoảng 5% phụ nữ có thai bị bệnh đái tháo đường thai kỳ, được định nghĩa là những trường hợp được phát hiện đường huyết cao lần đầu tiên trong thời gian mang thai, không loại trừ khả năng họ bị đái tháo đường từ trước nhưng chưa được chẩn đoán.
Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
– Ngay khi thai phụ đến khám thai lần đầu, nên đánh giá các yếu tố nguy cơ. Nếu thai phụ có các yếu tố nguy cơ cao như tuổi trên 35, béo phì, tiền căn có đái tháo đường thai kỳ, đường niệu dương tính, có tiền căn gia đình bị đái tháo đường sẽ được tầm soát đái tháo đường ngay. Nếu thai phụ có yếu tố nguy cơ trung bình sẽ thực hiện tầm soát vào tuần lễ thứ 24-28 của thai kỳ.
– Chẩn đoán xác định đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp 75g glucose, làm vào buổi sáng sau khi sản phụ đã nhịn đói trên 9 giờ. Tuy nhiên tiêu chuẩn chẩn đoán này chủ yếu dựa trên ngưỡng đường huyết có khả năng gây ra nguy cơ cho người mẹ mà ít tính đến nguy cơ cho thai nhi. Một tiêu chuẩn chẩn đoán mới đã được áp dụng tại nhiều nước để hạn chế các nguy cơ cho thai nhi, theo đó các ngưỡng đường huyết lần lượt là 5,1 mmol/l (đói), 10,0 mmol/l (sau ăn 1h) và 8,5 mmol/l (sau ăn 2h).
Thai nhi của các sản phụ bị đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ gì?
Các dị tật bẩm sinh
– Nếu người mẹ không được kiểm soát tốt đường huyết thì thai nhi có nguy cơ cao bị các dị tật bẩm sinh, có thể rất nặng. Các dị tật có thể gặp ở hệ thần kinh (thai vô sọ, nứt đốt sống, não úng thủy), hệ tiết niệu (teo thận, nang thận, hai niệu đạo), nhưng phổ biến nhất là các dị tật tim mạch (thông liên thất, thông liên nhĩ, đảo chỗ các mạch máu lớn)…
– Tỉ lệ này ở những đứa trẻ là con của các bà mẹ kiểm soát đường huyết kém là 6-12%, so với 2% ở những đứa trẻ của các bà mẹ không bị đái tháo đường hoặc có đái tháo đường nhưng đường huyết được kiểm soát tốt.
Thai to trên 4.000 gam hoặc thai kém phát triển
– Nhiều thai nhi của các bà mẹ được kiểm soát đường huyết kém có trọng lượng to so với tuổi thai. Thai to là hậu quả của một chuỗi các bất thường: đường huyết của mẹ cao, đường huyết của thai cao, tăng tiết insulin ở thai, kích thích thai phát triển to.
– Ngược lại, thai của một số bà mẹ bị đái tháo đường lâu, đã có biến chứng mạch máu thường bị kém phát triển trong tử cung, có thể do sự kém tưới máu nuôi dưỡng cho tử cung – nhau thai. Một nguyên nhân khác là do kiểm soát đường huyết quá chặt (đường huyết sau ăn trung bình dưới 6,1 mmol/l) cũng làm thai kém phát triển.
Đa ối
Đa ối là tình trạng có quá nhiều nước ối (trên 1000 ml, thường là hơn 3000 ml), làm cho các sản phụ rất khó chịu hoặc đau nhiều trước khi đẻ, và thường kết hợp với thai to. Tăng thể tích nước ối có liên quan không chỉ với nồng độ đường huyết, mà còn với các chất tan trong nước ối hoặc do thai bài tiết quá nhiều nước tiểu. Các yếu tố khác có thể là do thai giảm nuốt, hoặc do rối loạn vận chuyển nước qua các khoang trong buồng tử cung… Rất hiếm gặp đa ối ở những thai phụ được kiểm soát tốt đường huyết.
Sảy thai hoặc thai chết lưu
Trước những năm 1970, tỉ lệ thai chết lưu ở những phụ nữ bị đái tháo đường trong 3 tháng cuối của thai kỳ là hơn 5%. Các nguyên nhân chính gây chết thai là dị tật bẩm sinh, suy hô hấp thai hoặc người mẹ bị nhiễm toan ceton. Một số trường hợp chết thai có liên quan đến sản giật hoặc tiền sản giật, là một biến chứng khá phổ biến ở những sản phụ bị đái tháo đường. Ngày nay nhờ được chẩn đoán sớm hơn và kiểm soát đường huyết tốt hơn nên tỉ lệ này giảm xuống rõ rệt.
Điều trị đái tháo đường lúc có thai
Mục tiêu đường huyết
– Các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ phải được kiểm soát đường huyết tích cực và an toàn trong một khoảng hẹp, để đảm bảo an toàn cho cả sản phụ và thai nhi.
– Đường huyết lúc đói dưới 5,8mmol/l, đường huyết 1 giờ sau ăn 7,8mmol/l và 2 giờ sau ăn dưới 7,2mmol/l. Cũng không nên để mức đường huyết lúc đói thấp dưới 3,4 mmol/.
Dinh dưỡng điều trị
– Tổng số năng lượng mỗi ngày dành cho bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ được tính dựa trên cân nặng lý tưởng. Trên phụ nữ đã có cân nặng lý tưởng tổng số năng lượng là 30 Kcal/kg, những thai phụ gầy cần nhiều năng lượng hơn và ngược lại. Chế độ dinh dưỡng cần đảm bảo sự tăng trọng cần thiết trong thai kỳ: 0,45kg mỗi tháng trong quí đầu, 0,2 – 0,35kg mỗi tuần trong quí 2 và 3 của thai kỳ.
– Bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ nên kiêng các thức ăn, nước uống chứa nhiều đường hấp thu nhanh như sữa đặc, nước ngọt, bánh kẹo… và hạn chế các đồ ăn nếp như xôi, bánh chưng… Khuyến khích ăn các loại carbohydrat hấp thu chậm (đường phức và các chất xơ). Tổng số năng lượng được chia đều cho 3 bữa ăn chính và 3 bữa ăn phụ nhưng không nên ăn nhiều carbohydrat vào buổi sáng.
Điều trị bằng thuốc
– Điều trị bằng thuốc được chỉ định khi bệnh nhân không thể ổn định đường huyết bằng tiết chế đơn thuần. Cho đến nay insulin human (nguồn gốc người) là thuốc duy nhất được FDA chấp nhận cho điều trị bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ, như insulin thường (insulin actrapid) và insulin bán chậm NPH (insulatard) hoặc insulin hỗn hợp (mixtard) giữa insulin thường và insulin NPH. Tiêm dưới da 2 – 4 lần mỗi ngày, vào trước bữa ăn và trước lúc đi ngủ.
– Các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ cần đo đường huyết 4 – 6 lần/ngày (vào trước bữa ăn và 2 giờ sau ăn, trước khi đi ngủ). Bệnh nhân cần liên hệ với bác sĩ ngay nếu thấy kết quả đường huyết cao hoặc thấp bất thường. Chú ý thử ceton niệu khi đường huyết không ổn định hoặc khi thai phụ bị nôn nhiều.
Các nguy cơ có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh trong tuần đầu sau đẻ
Suy hô hấp cấp
Con của những sản phụ không được kiểm soát đường huyết tốt có nguy cơ cao bị suy hô hấp cấp do phổi chưa phát triển hoàn chỉnh, bệnh thường nặng và tỉ lệ tử vong khá cao. Trẻ bị suy hô hấp cấp thường thở rất nhanh trên 60 lần/ phút, khò khè, co kéo lồng ngực và cả bụng, tím tái… việc điều trị khá phức tạp nhưng ngày nay đã có một số phương pháp đạt kết quả tốt.
Hạ đường huyết
Trẻ sơ sinh có thể bị hạ đường huyết trong vòng 48 giờ đầu sau đẻ, đường huyết có khi thấp dưới 1,7 mmol/l. Nguyên nhân là do tình trạng tăng insulin máu vẫn còn tồn tại sau đẻ. Thường đứa trẻ bị hôn mê hơn là kích thích, và hạ đường huyết có thể phối hợp với ngừng thở, hoặc thở nhanh, tím, hoặc co giật. Phòng ngừa bằng cách cho uống nước đường hoặc cho qua sonde dạ dày sau đẻ khoảng 1 giờ, nếu biện pháp này không thành công thì cho truyền tĩnh mạch dung dịch đường glucose.
Một số rối loạn khác là hạ canxi máu, tăng bilirubin máu (gây vàng da), đa hồng cầu và ăn kém.
Tóm lại, tất cả các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ cần được điều trị tích cực nhằm kiểm soát tốt đường huyết trong suốt thời gian mang thai. Bên cạnh đó, thai nhi cần được theo dõi thường xuyên để có thể phát hiện được sớm các dị tật, các nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai, từ đó các thầy thuốc có kế hoạch can thiệp kịp thời và hiệu quả nhất.
pham bich hue đã bình luận
em cung bi luong duong huyet cao day.lo lang qua khong biet co anh huong gi den con yeu k nua.hi vong con yeu se khoe manh.
KIM LOAN đã bình luận
Chào bác sĩ!
Em là Loan, 25 tuổi.Hiện tại em đang mang bầu 30 tuần, em vừa đi thử lượng đường huyết thì bác sĩ kết luận bị rối loạn đường huyết (lượng đường 2h sau ăn của em là 7.9mmol/l). Với lượng đường huyết như vậy, em đã bị tiểu đường hay chưa ạ? liệu em bé nhà em có bị ảnh hưởng nhiều ko ạ? Hiện tại em nên làm gì để có thể kiểm soát được lượng đường huyết ạ. Mong bác sĩ cho em lời khuyên.
Cảm ơn bác sĩ
BS. Thanh Hương Meyeucon.org đã bình luận
Bạn hạn chế ăn ngọt như chè, trái cây (mít, vải, nhãn, na…) và nước trái cây, sinh tố pha đường, nước ngọt có gaz, mía, không ăn miến dong, có thể giảm 25% cơm so với mọi ngày trước. Tăng cường ăn rau xanh loại củ quả luộc. Nên ăn thiên về thực phẩm thủy hải sản.
Do thi minh phuong đã bình luận
toi 27 tuoi da sih mot chau duoc 2 tuoi. sau khi sinh 5 thang toi phat hien minh bi tieu duong. toi dang dieu tri bang thuoc SciLin M30. sau khi dieu tri 1 thang luong duong huyet cua toi dao dong trong khoang 5,3 – 6,8 va rat on dinh. gio toi muon sinh chau thu 2.toi thay co rat nhieu nguy co cho be cua toi. Vay toi phai lam gi de co mot be khoe manh.Toi rat hoang mang khong biet minh co nen sinh nua khong. Xin ay hoi dap cau hoi cua toi.
BS. Thanh Hương Meyeucon.org đã bình luận
Thời điểm này bạn chưa nên sinh bé thứ 2 vội, tập trung điều trị thật tốt bệnh và nuôi bé đầu khoẻ mạnh. Sau 2-3 năm nữa, tuỳ theo sức khoẻ để bạn quyết định sinh thêm hay không. Khi có thai, bệnh sẽ tăng nặng hơn đồng thời bé cũng bị ảnh hưởng. Sức khoẻ là vốn quí nhất của con người, bạn còn sống khoẻ mạnh thì con bạn được hưởng may mắn hạnh phúc trong vòng tay của mẹ. Một khi đau ốm bạn chẳng những không đủ sức làm ra của cải và chăm con, mà còn tiêu tốn thêm để điều trị.