Y học - Bệnh lý

Công thức máu và những điều bạn cần biết

Ngày: 29-01-2013

Công  thức máu là một trong những xét nghiệm thường quy, là xét nghiệm đầu tay của các thầy thuốc. Bác sĩ có thể yêu cầu làm công thức máu khi bạn bị sốt cao, mệt mỏi kéo dài, hoặc những lần kiểm tra sức khỏe định kỳ. Vậy công thức máu là gì và nó có tác dụng gì?

Công thức máu là xét nghiệm dùng để  đếm số lượng và tỉ lệ từng loại tế bào có trong máu. Công thức máu là xét nghiệm đầu tay của các bác sĩ, giúp họ chẩn đoán nhiều loại bệnh. Xét nghiệm này cũng thường dùng để theo dõi tiến triển và diễn biến của một số bệnh lý liên quan tới máu như bệnh máu trắng hay kiểm tra tác dụng phụ của một số loại thuốc gây ức chế tủy xương. Vậy các chỉ số trong công thức máu có ý nghĩa gì?

Công thức máu và những điều bạn cần biết - Y học - Bệnh lý - bệnh máu trắng - Kết quả xét nghiệm - Kiến thức y học - Sức khỏe gia đình

Thành phần của tế bào máu.

Bạch cầu (WBC)

WBC là số lượng bạch cầu trong một thể tích máu. Số lượng bạch cầu có thể thay đổi nhẹ nhưng bình thường khoảng từ 4.300 đến 10.800 tế bào/mm3, tương đương với 4.3 đến 10.8 x 109 tế bào / lít , tính theo đơn vị quốc tế (IU – International unit).

Bạch cầu có nhiệm vụ chống viêm, diệt khuẩn nên khi số lượng bạch cầu giảm xướng dưới 4000 phản ánh tình trạng dễ viêm nhiễm, bị nhiễm virus hoặc trong những bệnh lý liên quan tới giảm sản tủy (giảm sản xuất bạch cầu trong tủy xương), bạch cầu cũng hạ thấp ở những người có tiếp xúc với các hóa chất gây ung thư, với tia xạ hoặc các thuốc điều trị ung thư. . Tuy nhiên, khi bạch cầu tăng cao phản ánh tình trạng nhiễm trùng của cơ thể; khi bạch cầu tăng quá cao (>50000) với nhiều tế bào non đầu dòng (blast) không đủ chức năng cũng phản ánh nhiễm trùng nặng, trên lâm sàng thường gặp ở bệnh bạch cầu cấp.

Có 5 dòng bạch cầu khác nhau được phân biệt dựa theo kích thước và hình dạng của chúng bao gồm bạch cầu đa nhân trung tính (NEU), lymphocyte (LYM), monocyte (MONO), bạch cầu ưa acid (EOS) và bạch cầu ưa kiềm (BASO).

Số tế bào hồng cầu (RBC)

RBC là số tế bào hồng cầu trong một đơn vị máu. Hồng cầu là loại tế bào có nhiều nhất trong máu và mỗi người có hàng triệu tế bào bên trong máu tuần hoàn. Chúng nhỏ hơn bạch cầu nhưng lớn hơn tiểu cầu. Bình thường ở người trưởng thành, ở máu ngoại vi có khoảng 3,8 x 1012 hồng cầu/lít (đối với nữ) và 4,2 x1012 hồng cầu/lít (đối với nam). Số lượng hồng cầu có thể tăng lên khi lao động thể lực, sống ở trên núi cao 700 – 1000m, sau bữa ăn, khi ra nhiều mồ hôi, bỏng mất huyết tương, đái nhiều, ỉa chảy, trong bệnh đa hồng cầu, bệnh tim bẩm sinh…. Số lượng hồng cầu giảm lúc ngủ, khi uống nhiều nước, đói lâu ngày, ở nơi có phân áp oxy cao, cuối kỳ hành kinh, sau đẻ, các loại bệnh nhiễm độc, thiếu máu, suy tuỷ, chảy máu trong, chảy máu do vết thương, người nghiên rượu…

Tiểu cầu (Plt)

Tiểu cầu là những tế bào khởi động quá trình hình thành cục máu đông. Bình thường số lượng tiểu cầu thay đổi trong khoảng 150,000 – 400,000/ mm3 (150 – 400 x 109/lít). Những thay đổi bất thường về số lượng tiểu cầu có thể xảy ra ở nhiều bệnh lý và gây những hậu quả nghiêm trọng:

– Tiểu cầu thường giảm trong các bệnh lý ung thư di căn tới tủy xương, sau sử dụng một số thuốc gây ức chế sản xuất tiểu cầu ở tủy xương, ở những bệnh nhân bị mất rất nhiều máu đột ngột, sốt xuất huyết… Nếu số lượng tế bào tiểu cầu giảm quá thấp, bệnh nhân rất dễ bị xuất huyết. Số lượng tiểu cầu có thể tăng trong một số bệnh mạn tính, bệnh tủy xương hay sau sử dụng một số thuốc. Số lượng tiểu cầu tăng cao có thể hình thành những cục máu đông trong lòng mạch, cản trở sự lưu thông của máu.

Bạn cũng cần lưu ý rằng công thức máu thể hiện tình trạng hiện tại của máu tuần hoàn, nhưng những kết quả bất thường của các tế bào máu không phải bao giờ cũng là chẩn đoán của một bệnh đặc hiệu. Những thay đổi trong công thức máu có thể là kết quả của một loạt bệnh hoặc tình trạng bệnh lý hoặc các yếu tố môi trường khác.

Bình luận bằng Facebook

Speak Your Mind

*